Thứ Sáu, 23 tháng 1, 2015

Tử Vi 2015


KỶ HỢI – 57 TUỔI- ÂM NỮ
(Sanh từ 8-2-1959 đến 27-1-1960)
ty-huu-bac-kinh-trang-chuan
Vật Phẩm May Mắn: Tỳ Hưu Bắc Kinh Trắng
Tướng tinh : Con Gấu. Con dòng Thanh Đế, phú quý.
MẠNG : Bình địa Mộc (Cây sát đất)
SAO : Mộc Đức: May mắn, danh lộc tốt
HẠN : Tam kheo: Xây xát tay chân, nhẹ
VẬN NIÊN : Thử quy Điền (Chuột về đồng) tốt
THIÊN CAN : Kỷ gặp Ất: Khắc nhập, hao tốn
ĐỊA CHI : Hợi gặp Mùi: Tam Tai, xấu
XUẤT HÀNH : Ngày Mồng Một Tết:
-Từ 3h đến 5h sáng( giờ địa phương)
-Đi về hướng Đông để đón Tài Thần
MÀU SẮC : Hạp : Đen, xanh. Kỵ: Đỏ, trắng
TỔNG QUÁT: Quý Bà tuổi Kỷ Hợi là người lạc quan, thoải mái, ít bị câu thúc dễ hòa hợp với mọi người. Bản tính hiền lương, ăn ở có đức được nhiều người quý mến. Đối với người làm, người dưới, Quý Bà có lòng bao dung, rộng rãi vì vậy nhiều người muốn phục giúp hay hợp tác. Quý Bà, dễ thành công trong công việc kinh doanh, thương mại…hơn là nghề cố định.
Với tuổi sinh Mạng nhưng lại bị Can Chi tương khắc, cuộc sống khó tránh khỏi thăng trầm và và duyên tình cũng không xuôi thuận. Hơn nữa, tình cảm dễ đổi thay, đam mê nhưng mau chán, nên cuộc sống lứa đôi khó tránh khỏi sóng gió. Thuận sanh Đông, Xuân, sự nghiệp dễ thành, hưởng nhiều phúc lạc, Nghịch sanh lỗi số, phải đổi dời, thăng trầm, nhưng tiền bạc không thiếu, luôn có quý nhân giúp đỡ.
Tiền vận có nhiều chao đảo, cuối Trung vận mới tụ tài nhưng vẫn còn sóng gió về mặt tình cảm. Vì vậy mà sự nghiệp cũng chưa yên. Bây giờ đã vào cuối Hậu vận, đa phần đã có sự nghiệp vững vàng. Nếu biết tu tâm, dưỡng tánh, giảm bớt ham muốn tuổi già càng được thảnh thơi, phú túc.
SỰ NGHIỆP : Năm nay, Quý Bà gặp sao Mộc Đức chiếu mạng, công danh tài lộc tăng tiến, gặp nhiều may mắn, mưu sự dễ thành. Sao Mộc Đức thuộc hành Mộc, đối với Quý Bà, mạng Mộc càng có nhiều lợi ích.
Với hạn Tam kheo, phòng xây xát tay chân khi dùng dao kéo, vật nhọn sắt thép. Đây chỉ là Hạn nhẹ, không có gì nguy hại.
Về Tứ trụ, với Thiên tổn, Đại Tam Tai, không thuận trong cuộc sống, thường gặp khó khăn, ngăn trở trong công việc làm ăn và tiền bạc, sức khỏe suy hao. Gia đình, tình cảm có nhiều rối rắm, bản thân có thể xảy ra chuyện chẳng lành, cần phòng bệnh, nạn.
Vận Thử quy Điền khá tốt nếu cứ theo đường cũ mà đi, việc cũ mà làm, sẽ được thoải mái, lợi nhuận dễ dàng.
Phối hợp các yếu tố trên, đứng về mặt Ngũ Hành để luận giải, năm nay Can Ất thuộc Âm, Ngũ Hành Hợp Kim, Trung Vận là Thiếu Thương, Kim vận bất cập. Đối với Quý Bà mạng Mộc, gặp năm Kim là bị khắc. Nhưng với Bình Địa Mộc, Quý Bà, lại nhờ có Kim khắc mà vươn lên mạnh mẽ. Trong công danh, sự nghiệp nếu gặp khó khăn lại có cơ hội thăng tiến.
Sao Hạn, Vận niên đều tốt, nhưng Vận Thế hư hao, cuộc sống gặp nhiều trắc trở, có thể phải đổi thay chỗ ở, chỗ làm…nhưng có quý nhân giúp đỡ, trở nên dễ dàng hơn. Đây là năm không bình thường, mọi việc chuyển biến trái chiều, trong rủi có may, tiền Hung hậu Kiết. Tuy nhiên, đang vào Hạn Tam Tai, có thể xảy ra hung họa khó lường mà tài sức không thể ngăn ngừa hóa giải được. Chỉ có phước đức mới có thể chuyển Nguy thành An, gặp Hung hóa kiết. Nên làm lành lánh dữ để Phước sanh, Họa lùi. Một năm khó khăn nhưng vẫn đạt được thành quả đáng kể của Quý Bà.
Xét về mặt Tử Vi, Tiểu hạn đi vào Vượng Địa, có lợi cho danh lộc lẫn phúc thọ, đồng thời còn có khả năng ngăn chận, hóa giải các sự chẳng lành do Sao Hạn xấu gây nên. Đại Hạn 10 năm (Từ 53 đến 62 tuổi) là thời kỳ ổn định, an nhàn phú túc. Tiểu hạn Vượng Địa được ảnh hưởng tốt của Đại Hạn càng có nhiều thành tựu.
Cung Tiểu vận có Hỷ thần, Tang môn, Thiên phúc…cuộc sống có nhiều niềm vui nhưng không trọn vẹn vì cũng có những chuyện buồn theo sau. Tuy nhiên, nhờ cào phước đức, có người giúp đỡ, mọi chuyện không có gì trầm trọng. Đồng cung còn có Dưỡng, Kình, Lực, nên quan tâm nhiều hơn đến sức khỏe và phòng tai nạn. Đây là năm Tam Tai, dễ xảy ra bất trắc, mọi việc cần dè dặt. Đừng nên khởi nhiều ham muốn càng “trèo cao” thì càng “té nặng”.
Hội chiếu có Vũ khúc, Hóa lộc, Quý Bà là người có tay tạo ra tiền của khá dễ dàng. Năm nay, có cơ hội tốt, tài lộc hưng vượng. Tam hợp Mã ngộ khốc khách, chứng tỏ Quý Bà đã từng giúp người, nay có người giúp lại, biến Hung hóa Kiết, cuộc sống gặp nhiều may mắn.
Cun Mệnh Bạch hổ, Thiên hung, dễ gặp chuyện xấu khó lường, bản thân hay người trong gia đình đau ốm hay gặp nạn, gây hao tốn không nhỏ. Nên giữ tâm ý thiện lành, nhờ phước đức sẽ vượt qua.
Cung Tài Bạch, có nhiều Tài Tinh, Hỷ tinh hội nhập, tiền bạc tương đối dồi dào nhưng cũng bị tốn hao không ít vì chuyện ốm đau, rối rắm của gia đình.
Nhìn chung các mặt, năm nay tốt nhiều xấu ít, công danh sự nghiệp có phần thăng tiến nhưng tài lộc không được như mong cầu vì phải chi tốn bệnh nạn của người thân và cũng cả bản thân. Dù sao, đây là năm Trên Trung Bình của Quý Bà.
TÌNH CẢM: Năm nay, cuộc sống có nhiều giao động, tình cảm cũng có đủ vui buồn.
Quý bà là người lạc quan, ham vui, cuộc sống vợ chồng dễ có hạnh phúc nếu hai người hòa hợp. Tuy nhiên, đa phần tuổi Kỷ Hợi, vốn coi trọng đời sống cá nhân nên khó tránh khỏi bât hòa khi vợ chồng không cùng quan điểm. Bây giờ, tuổi đã lớn, nên giảm bớt những ham muốn cá nhân, đừng để “chuyện bé xé ra to” làm khổ cho con cái. Với Phù, Phá hội chiếu, khó tránh khỏi xích mích, tranh cãi, gia đình thêm bất an.
Với Tang, Khốc, có thể xảy ra những hư hại khó lường, Quý Bà nên quan tâm đến chồng con nhiều hơn, đừng để “mất trâu mới lo làm chuồng”.
Hạn có Mã, Hỷ, Long Phượng hội, vợ chồng có nhiều dịp đi xa, vui vẻ, nếu có con, còn phải lo cưới gả, tuy tốn hao nhưng vui vẻ.
Quan hệ bằng hữu, Quý Bà nên bạch hóa khi quan hệ với nam nhân để tránh tai tiếng, gây bất hòa trong tình chồng vợ.
Đối với Quý Bà đang trong tình trạng độc thân, năm nay được tình thì mất Tiền và ngược lại, có nhiều dịp đi xa, vui vẻ, nhưng dây tình chẳng khác gì lưới nhện, không bền vững. Có thể gặp lại người xưa, muốn “xây nhà bên suối” cũng khó thành tựu vì đang vào hạn Tam Tai.
Quý Bà hạp với người tuổi Kỷ Hợi đồng tuổi), Nhâm Dần (54 tuổi), Canh Tý (56 tuổi); Khắc kỵ với tuổi Đinh Dậu (59 tuổi), Quý Tỵ (63 tuổi), Tân Mẹo (65 tuổi).
Khai trương, nhận việc xuất hành, nên chọn giờ chẵn, ngày chẵn, tháng chẵn, mọi việc sẽ được thuận lợi hơn.
SỨC KHỎE : Năm nay Can Chi đều khắc, sức khỏe bất an, dễ ốm đay khi trái gió trở trời. Ngoài ra, nên quan tâm đường máu huyết và các chứng bệnh phụ khoa. Đặc biệt, gặp Tam Tai, cần đề phòng tai nạn.
Lái xe cẩn thận. Bổn mạng vững vàng.
Kỷ Hợi phần số Quý bà
Can chi tương khắc, cửa nhà chậm nên
Tánh hiền nhưng chí không bền
Công danh thay đổi, bạc tiền vào ra
Ham vui, chẳng biết lo xa
Duyên tình rối rắm, phải qua mấy cầu
Sự nghiệp cũng lắm dãi dầu
Trung niên tạm ổn, đổi sầu làm vui
Hậu vận đã biết tiến, lui
Tuổi càng lớn tuổi, hên xui giảm dần
Ất Mùi, gắng giữ an thân
Tạo thêm phước đức, được phần an vui.
NHỮNG ĐIỀU ĐẶC BIỆT TRONG NĂM:
-Mùa Xuân : Tháng giêng và 2 : Nhiều niềm vui nhưng tốn hao. Tiền vào tiền ra đều nhiều. Bị kẻ xấu lợi dụng. Tháng 3: Khó khăn được quý nhân giúp đỡ. Mưu sự được thành, Tiền Hung Hậu Kiết.
-Mùa Hạ : Tháng 4 & 5 : Nhiều rối rắm trở ngăn. Chỉ nên làm việc nhỏ. Có lợi lớn phải phòng hung họa. Tháng 6: Sức khỏe bất an. Gia đình có người bệnh nạn.
-Mùa Thu : Tháng 7 & 8 : Tình trạng thay đổi bất ngờ, gặp Hung hóa Kiết. Tài lộc tăng cao. Tháng 9 : Gia đình, tình cảm bất an. Công việc trở ngại. Có đổi thay tốt hơn.
-Mùa Đông : Tháng 10 & 11 : Lo lắng nhiều việc về chồng con. Tiền vào ra đều lớn. May mắn, khó khăn có người giúp. Tháng 12 : Nhiều điều toại ý, vừa lòng. Có bệnh cũng mau bình phục.
CÚNG SAO HẠN : Hàng tháng vào lúc 9h tối ngày 25 Âm lịch dùng 20 ngọn đèn, hương hoa trà quả làm phẩm vật quay mặt về hướng Đông mà khấn vái.
KỶ HỢI – 57 TUỔI- ÂM NAM
(Sanh từ 8-2-1959 đến 27-1-1960)
vong-phi-thuy-s966-16100k
Vật Phẩm May Mắn: Chuỗi Ngọc Phỉ Thúy A+
Tướng tinh : Con Gấu : Con dòng Thanh Đế, phú quý
MẠNG : Bình địa Mộc (Cây sát đất)
SAO : Thủy Diệu : Lo lắng, buồn phiền
HẠN : Thiên tinh : Rối rắm, tranh chấp
VẬN NIÊN : Thử quy Điền (Chuột về đồng) tốt
THIÊN CAN : Kỷ gặp Ất: Khắc nhập, hao tổn
ĐỊA CHI : Hợi gặp Mùi: Tam tai, xấu
XUẤT HÀNH : Ngày Mồng Một Tết:
-Từ 3h đến 5h sáng( giờ địa phương)
-Đi về hướng Tây để đón Tài Thần
MÀU SẮC : Hạp : đen, xanh. Kỵ: đỏ, trắng.
TỔNG QUÁT: Quý Ông tuổi Kỷ Hợi là người hiền lành, chăm chỉ, chịu khó làm ăn nhưng không có lập trường, dễ bị ngoại duyên làm thay đổi. Ra đời với nhiều sao xấu, Tam hình chiếu mạng, thường gặp rắc rối với công quyền, Tòa án, lại bị Xuyên Tâm ảnh hưởng, tâm tư tình cảm đớn đau, ít khi hưởng được hạnh phúc trong đời sống gia đình.
Bản chất thật thà, cần cù, được nhiều người thương mến, giúp đỡ khi khó khăn,có cơ hội để thay đổi tình trạng. Nếu được sanh vào 2 mùa Đông, Xuân, tuy công danh không cao, nhưng cuộc sống cũng khá an nhàn, gia đình yên ổn. Nghịch sanh phải chịu đựng gian lao vất vả, vừa cực thân vừa khổ tâm. Nhờ giữ được tâm lành, hậu vận có phần may mắn, Quý nhân giúp đỡ, cuộc sống ổn định. Tuổi già số hưởng Thiên lộc, được nhàn an, êm ấm.
SỰ NGHIỆP : Năm nay, Quý Ông gặp sao Thủy Diệu chiếu mạng,cuộc sống không yên, có nhiều buồn phiền, nhưng làm ăn xa thì có lợi. Sao Thủy Diệu thuộc hành Thủy, đối với Quý Ông mạng Mộc, trong rủi có may.
Với Hạn Thiên tinh, cuộc sống nhiều lo âu, tranh chấp, cãi cọ hay giấy tờ hồ sơ rối rắm.
Về Tứ Trụ, công việc làm ăn không thuận, toan tính khó thành, tiền bạc tốn hao. Gia đình, tình cảm cũng như sức khỏe không được bình an. Đây cũng là năm Tam tai dễ xảy ra nhiều việc chẳng lành, có thể lâm bệnh nạn.
Vận niên Thử quy Điền, khá tốt, Quý Ông có cơ hội làm việc trong môi trường quen thuộc, tài lộc dễ dàng, phù hợp với khả năng.
Phối hợp các yếu tố trên, đứng về mặt Ngũ Hành để luận giải, năm nay Can Ất thuộc Âm, Ngũ Hành Hợp Kim, Trung Vận là Thiếu Thương, Kim vận bất cập. Đối với mạng Mộc, gặp năm Kim, có nhiều hư hại, bất an. Nhưng với Quý Ông mạng Bình địa Mộc, có Kim khắc lại trở nên khá giả. Quý Ông đang lâm vào hoàn cảnh buồn bã, khó khăn, cuộc sống chẳng khác gì chiếc lò xo bị đè nén, gặp năm Kim trở lực không còn, lò xo sẽ bung lên, mạnh mẽ hơn. Sao Hạn bất an,Vận thế kém khuyết, được vận niên tốt đẹp, nên cố gắng chịu đựng các trở ngại, sẽ có cơ hội đổi thay tốt hơn. Dù sao, đây cũng là năm khá yếu kém đối với Quý Ông.
Xét về mặt Tử Vi, năm nay Tiểu hạn đi vào Bại Địa, bất lợi cho danh lộc lẫn sức khỏe, đồng thời còn có thể chiêu cảm các sự chẳng lành do Sao Hạn xấu gây ra. Đại hạn 10 năm (Từ 53 đến 62 tuổi), có Thiên phủ, tài lộc dồi dào, làm ăn hưng phấn.Năm nay, Tiểu hạn không tốt nhưng được Đại Hạn sáng sủa, làm ăn thắng lợi, cũng làm giảm bớt khó khăn của Tiểu Hạn.
Cung Tiểu Hạn có Bệnh, Hao nhưng có Tuần, Triệt đồng cung, nếu có bệnh cũng chóng bình phục, hao tổn có phần bù đắp. Tiểu hạn đi vào Bại Địa nhưng Tuần, Triệt, đồng cung đã làm thay đổi tình trạng, trở nên sáng sủa hơn.
Hội chiếu có Tấu thơ, có lợi cho sức khỏe, tinh thần thoải mái, an vui.Nhưng với Kinh Mã đồng nhập, công việc làm ăn cũng thường gặp cạnh tranh chống phá, làm có tiền nhưng phải tốn hao, tài lộc khó bảo toàn.
Với Vũ, Tham trực chiếu bị tuần án ngữ, công việc làm ăn, toa tính của Quý Ông, thuận ban đầu về sau trắc trở. Ngoài ra, Tử Vi có Kinh, Phủ, công việc làm ăn hay bản thân có việc phải liên can đến pháp luật. Đây là việc khá trầm trọng, nên đề phòng, đừng có hành động phi pháp.
Cung mệnh có Bạch hổ, Thiên Hùng, dễ gặp chuyện xấu khó lường, tài lộc không thuận. Ngoài ra, bản thân hay người thân cũng có thể lâm bệnh nạn khá trầm trọng. Với tình trạng này, ngoài việc giữ gìn,nên làm việc thiện, giữ lòng lành trong quan hệ, ứng xử hợp đao đức để tạo thêm phước đức, may ra mới giảm phần khó khăn vì bệnh nạn.
Cung Tài Bạch, với Thiên phủ, Mã ngộ lộc, tiền bạc cũng có của dư của để, làm ăn cũng có lúc phát tài, nhưng với nhiều Hư, Phá tinh, phần tốn hao cũng không nhỏ. Nên cẩn thận trong chi thu, vấn đề tiền bạc không có gì đáng ngại.
Nhìn chung, năm nay xấu nhiều tốt ít, họa tai khó lường, chỉ có phước đức nhiều hay ít mà trở nên nhẹ hay nặng. Đây là năm khá khó khăn đối với Quý Ông.
SỨC KHỎE : Năm nay, Sao Thủy Diệu chiếu mạng, tình cảm khó có niềm vui. Đây cũng là năm Tam Tai, cuộc sống gia đình cũng có nhiều bất ổn.
Quý Ông cần quan tâm nhiều đến vợ con, dù khó khăn thiếu hụt, đồng vợ đồng chồng chia sẻ với nhau, gia đình vẫn hạnh phúc.
Quý Ông đã lớn tuổi, hơn một lần lập gia đình, càng nên thận trọng giữ gìn cuộc sống chung. Năm nay, có tin buồn trong thân quyền, vợ con hay bản thân cũng có người ốm đau.Sự chăm sóc, đỡ đần cho nhau là liều thuốc giảm đau hiệu nghiệm, cũng là thuốc chữa bệnh mau lành. Dù vợ chồng có những riêng tư khó bày tỏ, nhưng đừng gây thêm bất hòa, buồn chồng thêm khổ. Dù công việc nhiều mệt nhọc, khó khăn, cũng nên cố gắng tạo niềm vui cho gia đình.
Hạn có Khôi, Việt, Kinh, Hư các con có người nên, kẻ hư. Cần quan tâm các con nhiều hơn, nhất là phòng tai nạn dọc đường.
Đối với Quý Ông đang trong tình trạng độc thân, năm nay mải lo việc làm ăn, cuộc sống nhiều rối rắm, ít người dính mắc tình cảm, nhưng nếu có, cũng đừng nên lập gia đình. Sao Hạn xấu, còn gặp Tam Tai, đừng tính chuyện lớn.
Quý Ông hạp với tuổi Bính Dần (42 tuổi), Ất Tỵ (51 tuổi), Bính Ngọ (50 tuổi), khắc kỵ với tuổi Quý Mẹo (53 tuổi), Mậu Thân (48 tuổi),. Kỷ Dậu(47 tuổi).
Khai trương, nhận việc, xuất hành nên chọn giờ lẻ, ngày lẻ, tháng chẵn,mọi việc sẽ được thuận lợi hơn.
SỨC KHỎE : Năm nay, với Thiên khắc, dễ bị bệnh nhức đầu, rối loạn đường máu, tiêu hóa. Tử vi có Bệnh Ngộ Triệt, có thể tránh được bệnh hay có cũng mau phục hồi. Cung mệnh có nhiều Sao xấu, cần phòng tai nạn đi đường, có thể bị thương tích khá nặng.
Lái xe cẩn thận. Bổn mạng bất an.
Kỷ Hợi phần số Quý Ông
Can Chi tương khắc, khó thông danh tài
Cuộc đời chịu lắm nạn tai
Xuyên Tâm chiếu mạng, đớn đau duyên tình
Số người cũng chịu Tam Hình
Rối ren công việc, gia đình không yên
Chịu khó, chịu khổ lại hiền
Trung niên may mắn, xa miền quê hương
Cuộc đời rộng mở nhiều đường
Hậu lai phú túc, an khương gia đình
Ất Mùi, nhiều chuyện buồn tình
Đề phòng bệnh nạn, gia đình mới yên.
NHỮNG ĐIỂM ĐẶC BIỆT TRONG NĂM:
-Mùa Xuân: Tháng giêng & 2: Công việc bận rộn. Tài lộc khá. Hao tốn vì tranh chấp. Tháng 3: Khó khăn về tiền bạc, nhiều việc rối rắm.
-Mùa Hạ: Tháng 4 & 5: Có chuyện buồn trong gia đình. Công việc thất thường, đi xa có việc làm tốt. Tháng 6: Rối rắm vì giấy tờ, phòng bệnh nạn.
-Mùa Thu: Tháng 7 & 8: Tin buồn trong gia đạo, con cái có người ốm đau, khó khăn có người giúp. Tháng 9: Tình trạng thay đổi tốt hơn, công việc thuận lợi hơn.
-Mùa Đông: Tháng 10 & 11: Tài lộc dồi dào. Gia đình có tin vui về con cái. Toan tính được thành. Tháng 12: Sức khỏe thất thường, phòng tai nạn đi đường.
CÚNG SAO HẠN: Hàng tháng vào lúc 9 giờ tối ngày 21 Âm lịch dùng 12 ngọn đèn, hương hoa trà quả làm phẩm vật quay mặt về hướng Bắc mà khấn vái.
MẬU THÌN – 28 TUỔI – DƯƠNG NỮ
(Sanh từ ngày 17-2-1988 đến 5-2-1989)
Mat-thach-anh-toc-vang-S5015-1
Vật Phẩm May Mắn: Mặt Thạch Anh Tóc Vàng
Tướng tinh: Con Quạ. Con dòng Thanh Đế, trường mạng
MẠNG: Đại Lâm Mộc (Cây rừng lớn)
SAO: Kế Đô: Ốm đau, hao tốn
HẠN: Thiên sinh: Rối rắm, tranh chấp
VẬN NIÊN: Cẩu cuồng Phong (Chó dại), xấu
THIÊN CAN: Mậu gặp Ất: Cùng hành, trung bình
ĐỊA CHI: Thìn gặp Mùi: Sinh nhập, có lợi
XUẤT HÀNH: Ngày Mồng Một Tết.
-Từ 3 giờ đến 5 giờ sáng (giờ địa phương)
-Đi về hướng Tây Nam để đón Tài Thần
MÀU SẮC: Hạp màu: đen, xanh; Khắc kỵ: trắng, đỏ.
TỔNG QUÁT: Quý Cô tuổi Mậu Thìn, có Can chi đều thuộc Thổ, “lưỡng Thổ thành Sơn” có tay tạo ra tiền của, nhà cửa đất điền. Nếu thuận sanh Đông, Xuân hợp mạng, cuộc đời hưởng nhiều phúc lộc, có chồng danh giá, gia đình sự nghiệp thịnh hưng.
Quý Cô nhiều tự ái trong danh dự hơn tiền bạc, luôn cố gắng vươn lên bằng chính công sức của mình. Đa phần sự cưu mang, nuông chiều của gia đình, có điều kiện tốt để học hành đến nơi đến chốn. Nhưng số khắc Mẹ, Cha, ở gần thì khắc khẩu, ở xa thì nhớ thương.
Quý Cô là người tốt bụng, nhưng quá tự tin dễ trở nên kêu ngạo, không nghe lời của người lớn, khó tránh khỏi thất bại. Số có Phù Trầm chiếu mạng, khó tránh khỏi thăng trầm nhất là thời còn trẻ. Bắt đầu đứng vững ở tuổi Trung Niên, gia đình sự nghiệp ổn định. Nếu biết tạo thêm phước đức, càng lớn tuổi cuộc sống càng cao, tuổi già hưởng nhiều phúc lộc, số Trường Thọ, con cháu nên danh.
SỰ NGHIỆP: Năm nay, Quý Cô gặp Sao Kê Đô chiếu mạng, đây là một Hung Tinh của nữ giới, gây nhiều rối ren trong công việc lẫn tình cảm, sức khỏe cũng không được an, phòng tai nạn. Sao Kế Đô, thuộc hành Kim, đối với Quý Cô mạng Mộc, càng sinh nhiều tai hại, phòng tai nạn phạm thân.
Với hạn Thiên Tinh, nhiều rối rắm trong công việc, nhất là mặt giấy tờ, hợp đồng. Nếu không cẩn thận, dễ xảy ra tranh chấp, có thể phải đưa nhau ra Tòa. Mọi việc cần ngay chính, minh bạch mới có thể giảm phần khó khăn, thua thiệt.
Về Tứ Trụ, với Thiên Tổn, Địa hòa, thời thế không thuận, công việc làm ăn, tính một đường, đi một ngả dẫn đến thất bại. Gia đình tình cảm tương đối bình an.
Vận niên Cẩu cuồng Phong, bất lợi trong quan hệ với bên ngoài, gặp nhiều trái ý, trở nên nóng vội, quyết định sai lầm, gây thua thiệt nhiều mặt.
Phối hợp các yếu tố trên đứng về mặt Ngũ Hành để luận giải, năm nay Can Ất thuộc Âm, Ngũ hành hợp Kim, Trung vận là Thiếu Thương, Kim vận bất cập. Đối với Quý Cô mạng Đại Lâm Mộc, gặp Kim, tuy bất lợi nhưng vì Kim yếu nên chỉ bị hao hại nhỏ. Sao Hạn, Vận niên đều bất an, sinh nhiều rối rắm trong công việc làm ăn cũng như sức khỏe, tình cảm. Đừng nên mưu tính lớn, cố gắng giữ gìn để bảo toàn danh lợi đang có và hoàn cảnh nào cũng giữ tâm lành ý thiện, sẽ có người giúp vượt qua. Có thể nói, đây là năm khá xấu của Quý Cô, mọi việc cẩn thận.
Xét về Tử Vi, Tiểu vận đi vào Bại Địa, bất lợi cho công danh tài lộc lẫn sức khỏe, đồng thời còn có thể chiêu cảm các sự chẳng lành do Sao Hạn xấu gây ra. Đại Hạn 10 năm (22 đến 31 tuổi) có Tham, Phá, gây bất ổn trong sự nghiệp. Tiểu Hạn năm nay lại đang ở trong Đại Hạn xấu nên càng phải dè dặt để tránh thua thiệt nặng. Hơn lúc nào hết, Quý Cô đang ở vào thời kỳ đầy biến động bất lợi, càng phải giữ gìn, dè dặt mọi mặt. “An phận thủ thường” là phương cách tốt để ứng xử trong lúc Thời hư vận xấu.
Cung Tiểu Hạn có Tử phù, Nguyệt đức, Giải thần, Bệnh phù…năm nay có nhiều tác nhân gây trở ngại trong công việc, tinh thần trở nên lo lắng, buồn phiền và bản thân có thể nhuốm bệnh, rất khó khăn cho việc làm ăn. Bên cạnh những trở ngại Quý Cô cũng có nhiều may mắn do Quý nhân giúp đỡ và nhờ phước đức để vượt qua chướng ngại, khó khăn.
Hội chiếu có Thiếu Dương, Thiên không, sự thông minh, toan tính sang suốt của Quý Cô đã bị mây che phủ, rất khó trở xoay, thay đổi. Với Tướng, Án, Quả tú, một mình phải đối phó nhiều mặt nhưng hoàn cảnh có nhiều trở ngại rất khó vượt qua. Quan phủ, Kiếp sát, Cô thần là những Phá tinh, càng vọng động càng sinh nhiều rối rắm, có hại nhiều hơn lợi.
Cung Mệnh có Câu Giảo, dễ sinh nhiều chuyện chống trái, phiền lòng. Trước nghịch cảnh, nếu Quý Cô nuôi lòng thù hận, muốn tìm cách hại người thì lại càng tai hại hơn, vì Nhân nào thì Quả đó, hại người thì bị người hại. Cần đè nén và tự mình tìm cách hóa giải trong tâm có ý bất thiện, sẽ giảm đi hậu quả đáng tiếc.
Cung Phúc đức có Long Đức, Thiên Đức, Thiên quan là những sao tốt, có khả năng ngăn chặn, hóa giải khó khăn. Ngoài ra, lại còn có Long, Phượng, Giải và Thái âm, Quý Cô được sự giúp đỡ của Mẹ hay Bà lớn tuổi để vượt qua tình trạng rối ren. Tuy vậy, bản thân phải cố gắng giữ gìn tâm lành ý thiện, làm việc ngay chính thì phần Phước sẽ sanh, Họa sẽ lùi.
Nhìn chung các mặt, năm nay Sao Hạn, Tử Vi đều bất lợi, cuộc sống khó tránh khỏi thua thiệt, khó khăn. Đừng nên ỷ sức, ỷ lực, ỷ vào sự khôn ngoan tài trí của mình mà hành động. Nên an nhẫn và sống ngay lành, sẽ nhờ người giúp và phước đức sẽ chuyển hóa khó khăn, trở nên bình an. Cố gắng duy trì công việc đang có và giữ gìn sức khỏe được bình an…cũng được xem như thắng lợi.
TÌNH CẢM: Năm nay, cuộc sống gặp nhiều phiền toái, tình cảm cũng không mấy thuận lợi.
Nếu đã có gia đình, với Quả tú, Cô thần, mọi việc thường tự chuyên, tự quyết, dễ sinh bất hòa trong tình cảm chồng, vợ. Đời sống vợ chồng “tuy Hai mà Một” cần có sự chia sẻ vui buồn mới tạo được hạnh phúc lứa đôi. Đây là lúc khó khăn, nên bàn bạc cùng nhau giải quyết, dù có thua thiệt trong công việc vẫn giữ được gia đình êm ấm.
Quan hệ bằng hữu, nên dè dặt và đừng quá tin lời. Sao Hạn xấu, đừng nghe lời người mà nghi ngờ lòng chung thủy của chồng. Vợ chồng còn trẻ, cẩn thận lời nói, đừng để chuyện bé xé ra to.
Năm nay, nếu có thêm cháu bé thì gia đình tăng thêm hạnh phúc, vì đứa bé tuổi Mùi rất hợp với Mẹ.
Đối với Quý Cô độc thân, năm nay Hồng, Đào vận hành mạnh, có thể gặp “người trong mộng”. Cuộc sống đang khó khăn về công việc, nếu gặp được người tình biết chia sẻ thì đó là hạnh phúc của Quý Cô, có thể tiến đến hôn nhân.
Quý Cô hạp với tuổi Bính Thìn (40 tuổi). Mậu Thân (47 tuổi), Kỷ Tỵ (27 tuổi); Khắc kỵ tuổi Bính Ngọ (50 tuổi), Tân Mùi (25 tuổi).
Khai trương, xuất hành, nhận việc nên chọn giờ chẵn, ngày chẵn, tháng chẵn sẽ được thuận lợi.
SỨC KHỎE: Năm nay, Thiên can tốt, ít bị ốm đau lặt vặt, nhưng Sao chiếu mạng bất an, quan tâm nhiều đến đường máu huyết, bao tử và phòng tai nạn.
Lái xe cẩn thận. Bổn mạng bất an. Cần làm việc lành tránh việc dữ, nhờ Phước sanh, Họa lùi, cuộc sống được an ổn.
Mậu Thìn phần số Quý Cô
Thông minh, lanh lợi điểm tô danh phần
Cuộc sống thay đổi nhiều lần
Tự tin tài sắc, chẳng cần nghe ai
Tuổi trẻ có lắm chông gai
Trung thời vận tốt gia tài lớn to
Đông, Xuân thuận số khỏi lo
Có chồng quyền chức, của kho càng đầy
Nghịch sanh, cuộc sống đổi thay
Bạc tiền không thiếu, thiếu may tình đầu
Ất Mùi, thời vận đen màu
Thủ thường an phận, qua cầu bình an
.
NHỮNG ĐIỂM ĐẶC BIỆT TRONG NĂM:
-Mùa xuân: Tháng giêng và 2: Phòng bệnh nạn. Có cơ hội tốt nhưng mưu tính không thành. Phòng tiểu nhân chống phá. Tháng 3: Khó khăn nhưng vượt qua. Tài chánh khó khăn.
-Mùa Hạ: Tháng 4 và 5: Có lợi nhỏ trong công việc. Có lợi phải phòng hung họa theo sau. Việc làm cần ngay thẳng, có thể bị rắc rối với pháp luật. Tháng 6: Tranh chấp bất lợi. Có người giúp để vượt qua rối rắm.
-Mùa Thu: Tháng 7 và 8: Quan hệ gặp nhiều điều trái ý. Càng vọng động càng thiệt hại Phòng tiểu nhân oán thù. Tình cảm bất an. Tháng 9: Mưu sự Tiền Hung hậu Kiết. Phòng bệnh nạn.
-Mùa Đông: Tháng 10 và 11: Tình trạng thay đổi, sáng sủa hơn. Tài lộc tăng. Gặp nhiều may mắn trong công việc. Tháng 12: Sức khỏe tốt, có bệnh nạn cũng nhẹ qua. Tình cảm an vui sau vài biến động.
CÚNG SAO HẠN: Hàng tháng vào lúc 9 giờ tối ngày 18 Âm lịch dùng 20 ngọn đèn, hương hoa trà quả làm phẩm vật quay mặt về hướng Tây mà khấn vái.
CANH NGỌ – 26 TUỔI –DƯƠNG NAM
(Sanh từ 27-1-1990 đến 14-2-1991)
M011-ty-huu-thanh-ngoc-2
Vật Phẩm May Mắn: Tỳ Hưu Thanh Ngọc
Tướng tinh: Con Vượn – Con dòng Huỳnh Đế, Cô quạnh
Mạng: Lộ bàn Thổ (Đất đường đi)
Sao: Thái Âm: May mắn, danh lộc tốt
Hạn: Diêm vương: bất lợi đường máu huyết
Vận niên: Hầu thực Quả (Khỉ ăn trái) tốt
Thiên can: Canh gặp Ất: Khắc xuất, thắng lợi
Địa chi: Ngọ gặp Mùi: Sinh xuất, hao tổn
Xuất hành: Ngày Mồng Một Tết
-Từ 3 giờ đến 5 giờ sáng (giờ địa phương)
-Đi về hướng Đông Bắc để đón Tài Thần
Màu sắc: Hạp màu: đỏ, vàng; kỵ: trắng, đen
TỔNG QUÁT: Quý Anh tuổi Canh Ngọ là người thông minh, năng động, nhiều tự tin, có khả năng làm chuyện lớn, đảm nhận trọng trách. Với nhiều tham vọng, luôn cố gắng phấn đấu hết mình không ngại khó ngại khổ, nên không nhiều thì ít cũng tạo được sự nghiệp trong thời Tiền vận. Tuy nhiên, với bản tính nóng nảy, vội vàng, có một vài thành công càng tăng trưởng lòng tự hào, trở nên cố chấp khó nhận ra khuyết điểm của mình, dẫn đến thất bại. Tuy nhiên, không bị lâm vào bế tắc, nhờ có sao Thiên Ất độ mạng, gặp may mắn bất ngờ, đổi thay tình thế.
Với Tuổi mạng tương sanh, cuộc sống khá thuận lợi. Nhờ sự giao tiếp rộng, quen biết nhiều, cộng với lòng khát khao danh vọng, đi vào Trung vận đã tạo được sự nghiệp vững vàng. Nếu sanh vào Mùa Hạ và các tháng 3, 9, 12 Âm Lịch là thuân số nếu ăn ở hợp Đạo Đức có thể trở nên giàu sang, phú quý nhưng cần phải kiềm chế bản thân trong duyên tình. Nghịch sanh lỗi số phải thăng trần nhiều độ, gia đình sự nghiệp phải xây dựng đôi lần mới yên.
SỰ NGHIỆP: Năm nay, Quý Anh gặp sao Thái Âm chiếu mạng, công việc gặp may mắn, tài lộc hưng vượng, mưu sự dễ thành. Sao Thái Âm thuộc hành Kim đối với Quý Anh mạng Thổ không được hoàn toàn tốt, trong may có rủi.
Với hạn Diêm Vương, đề phòng bệnh nạn, tổn hại đường máu huyết, cẩn trọng các bệnh lây nhiễm qua đường máu.
Về Tứ Trụ, với Thiên thắng, Địa hao, công việc làm ăn có vài khó khăn nhưng vẫn có phần thành tựu, mưu sự tiền hung hậu kiết. Gia đình tình cảm cũng như sức khỏe không được tốt, sinh chuyện hao tốn, đau ốm.
Vận niên Hầu thực Quả, rất tốt cho việc làm ăn, nhưng không nên mạo hiểm. Nếu làm ăn trong môi trường quen thuộc, phù hợp với khả năng sẽ dễ dàng thu nhập tài lộc xứng đáng.
Phối hợp các yếu tốt trên , đứng về mặt ngũ hành để luận giải, năm nay Can Ất thuộc Âm, Ngũ Hành hợp Kim, Trung vận là Thiếu, Thương, Kim vận bất cập. Đối với Quý Anh, mạng Thổ, có phần tốn hao nhưng không thất bại. Vẫn có thành quả nhưng có phần tốn hao. Sao chiếu mạng đem lại nhiều cơ hội tốt, công việc có người giúp đỡ, ủng hộ.
Vận Thế có phần khó khăn nhưng cố gắng sẽ vượt qua. Riêng về sức khỏe, tình cảm có nhiều bất an, có thể làm trở ngại cho con đường tiến thủ. Đây là năm không thuận nhưng với khả năng cộng với sự cố gắng của bản thân, vẫn có phần nào thành quả. Nếu thức thời, đừng quá tự tin vào tài trí của mình, chấp nhận công việc đang có, vẫn có thu nhập dễ dàng. Dù cuộc sống có những rối rắm bất an, phải tốn hao khá nhiều vẫn không có gì khó khăn về vật chất. Có thể nói đây là năm Trung bình đối với Quý Anh.
Xét về mặt Tử Vi, Tiểu vận đi vào Bại Địa, bất lợi cho danh lộc lẫn sức khỏe, đồng thời có thể chiêu cảm các sự chẳng lành do Sao Hạn xấu gây ra. Đại hạn 10 năm (23 đến 25 tuổi) có Vũ Phi đáo hạn, công danh sự nghiệp có nhiều chao đảo, chưa ổn định nhưng có nhiều cơ hội để thi thố khả năng. Tiểu Hạn năm nay, chịu ảnh hưởng của Đại Hạn nên gặp nhiều trắc trở, công việc không thuận.
Tiểu Hạn có Thất Sát hãm địa, là một Nam Đầu Tinh Dương Kim có khả năng xoay trở, dũng mãnh, để đổi thay tình thế. Quý Anh không bằng lòng với công việc, vị thế đang có, đang tìm cơ hội để vươn lên, có thể dẫn đến hư hại không nhỏ. Đồng cung có Thiên Quan, Lộc Tồn, Phúc Đức, cũng có người ủng hộ, giúp đỡ trong mưu sự, tài lộc tăng nhưng tình trạng không kéo dài, chỉ là cơ hội nhất thời. Với Tuần, Triệt tại Thân Dậu, là người dễ nổi tiếng trong môi trường nhiều biến động, sự thành tựu phải đánh đổi nhiều công sức.
Hội chiếu có Tứ linh: Long, Hổ, Phượng, Cái nhiều may mắn vì có sự giúp đỡ của Quý nhân, có thể vượt qua trở ngại, đạt được phần nào mộng ước.
Cung mệnh có Thái Dương, Thiên không, Kiếp sát, đừng quá tự tin vào sự tài trí, khôn ngoan, sáng suốt của mình, dễ sinh bất trắc. Công việc làm ăn càng có nhiều người hợp tác càng dễ xảy ra tranh cãi, có khi bị liên lụy. Nếu có dịp đi xa, thay đổi công việc sẽ có lợi thoải mái.
Cung Tài Bạch, với Thiên Tài, Mã ngộ Lộc, tiền bạc đầy đủ, có lúc đến bất ngờ, nhưng chưa tích lũy được vì chiếu và lưu chiếu cũng có Phá, hao gây tốn hao không ít.
Nhìn chung đây là năm có nhiều khó khăn, nhưng đối với tuổi trẻ có khả năng như Quý Anh, không phải là năm thất bại, cũng là lúc rút kinh nghiệm để xây dựng tương lai.
TÌNH CẢM: Năm nay, công việc làm ăn có nhiều phức tạp, tình cảm cũng không yên.
Nếu đã có gia đình, vợ chồng phải chịu đựng phần nào thiếu vắng nhau vì công việc . Với Phượng, Long, Hỷ hội, hạnh phúc càng nồng ấm sau thời gian xa vắng.
Đây là lúc vợ chồng chưa có sự nghiệp ổn định, còn phải đi ra ngoài giao tiếp nhiều, Quý Anh cần phải cẩn thận, đừng vì “ xa mặt cách lòng” tương lai càng thêm rối rắm.
Năm nay nếu có sinh con thì cuộc sống vợ chồng càng thêm hạnh phúc. Đứa bé tuổi Mùi sẽ là sợi dây gắn kết hai vợ chồng, gia đình có nhiều niềm vui, ấm êm.
Đối với Quý Anh độc thân, tình cảm gây nhiều tốn hao, mất cả thời gian lẫn tiền bạc. Đặc biệt, đừng nên nghe lời bàn bạc của bạn bè mà sinh thêm rối rắm.
Nếu đã có người yêu, muốn lập gia đình, cũng nên thực hiện, không có gì phải kiêng kỵ.
Quý Anh hạp với người tuổi Đinh Sửu (19 tuổi), Tân Mùi (25 tuổi), Giáp Tuất (22 tuổi), Mậu Thìn (28 tuổi); khắc kỵ với tuổi Mậu Dần (18 tuổi), Nhâm Thân (24 tuổi), Quý Dậu (23 tuổi), Bính Dần (30 tuổi).
Khai trương, nhận việc, xuất hành nên chọn giờ lẻ, ngày lẻ, tháng lẻ mọi việc sẽ được thuận lợi hơn.
SỨC KHỎE: Năm nay với Hạn Diêm Vương, cẩn thận phòng các chứng bệnh lây qua đường máu. Với tuổi còn trẻ, ít ai bị bệnh tim mạch, huyết áp nhưng cũng cần biết kiềm chế các sự nóng nảy bực tức. Nếu quá đáng cũng có thể xảy ra tình trạng nhồi máu cơ tim, gây hậu quả tai hại khó lường.
Lái xe cẩn thận. Bổn mạng bất an.
Canh Ngọ mạng Thổ Quý Anh
Thông minh năng nổ, công danh có phần
Mùa Hạ sanh thuận sướng thân
Gặp nhiều may mắn, đời dần lên hương
Nghịch sanh rối rắm nhiễu nhương
Đông Đoài thay đổi phong sương cũng nhiều
Khôn ngoan toan tính đủ điều
Nói năng khôn khéo, dễ xiêu lòng người
Tiền vận sáng khóc, tối cười
Trung niên dựng lập hơn mười thời qua
Ất Mùi, lắm chuyện bất hòa
Lợi danh thì có, cửa nhà không yên
NHỮNG ĐIỂM ĐẶC BIỆT TRONG NĂM:
-Mùa Xuân: Tháng giêng và 2: Vượt qua khó khăn, thành tựu lớn. Tài lộc dồi dào. Sức khỏe suy hao.. Tháng 3: Khó khăn có người giúp. Mưu sự dễ thành.
-Mùa Hạ: Tháng 4 và 5: Tình cảm vui vẻ. Công việc thuận lợi. Hợp tác làm ăn sinh nhiều rối rắm . Tháng 6: Có lợi về chỗ ở, nhà đất hay đi xa. Phòng nạn tai dọc đường.
-Mùa Thu: Tháng 7 và 8: Nhiều trở ngại trong công việc. Gia đạo tình cảm bất an. Tài lộc suy giảm Tháng 9: nhiều cơ hội tốt thay đổi tình trạng. Có người ủng hộ.
-Mùa Đông: Tháng 10 và 11: Nhiều việc lo âu. Sức khỏe kém. Tốn hao nhiều mặt. Tháng 12: Tiền vào ít ra nhiều. Bị tai tiếng, tình cảm bất an.
CÚNG SAO HẠN: Hàng tháng vào lúc 9 giờ tối ngày 26 Âm lịch dùng 7 ngọn đèn, hương hoa trà quả làm phẩm vật quay mặt về hướng Tây mà khấn vái.

















Thứ Tư, 21 tháng 1, 2015

Tứ thiền định

Tứ thiền nghĩa là bốn mức độ nhập định được chia ra Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Gọi là Tứ thiền định là không chính xác vì ta còn có Năm mức định.
Bốn mức thiền này đều có nhập và xuất, nghĩa là khi muốn an trú mức thiền nào, ta phải có thời gian dụng công chứ không phải đó là những trạng thái thường xuyên. Rồi khi muốn trở lại trạng thái như cũ, ta cũng phải mất công thoát ra chứ không phải tức thì được. Bình thường khi không nhập thiền, một thiền giả an trú trong nội tâm tỉnh giác vắng lặng nhưng không phải là bốn mức thiền này. Bốn mức thiền này chỉ được thực hiện trong tư thế bất động mà thôi. Tuy nhiên, cũng có khi một thiền giả vừa đi vừa nhập thiền rất sâu. Lúc đó, vị đó được xem là khởi thần thông, vì thần thông có nghĩa là vừa vào định vừa hành động. Chúng ta cần hiểu qua tính chất của Tứ thiền trước khi so sánh vơi Tứ thánh quả. Những điều được trình bày ở đây dựa vào bài kinh Sa Môn Quả trong Trường Bộ Kinh

Chánh niệm tỉnh giác

Muốn nhập định thì phải loại bỏ vọng tưởng, sau một thời gian luyện tập Thiền, thiền giả đạt được 'Chánh niệm tỉnh giác nghĩa là tâm không loạn động như trước, những suy nghĩ vẫn vơ vừa mới manh nha nổi lên đã bị phát hiện và loại bỏ. Lúc này hành giả đã cảm thấy một phần an lạc và sáng suốt hơn xưa rồi, tùy duyên mỗi người mà trực giác cũng phát triển một chút xíu, có khi chỉ cần nghe người ta nói nửa câu thì biết ý của họ là gì, thậm chí có khi chỉ cần nhìn mặt là biết kẻ ngay người gian, biết người đối diện đang nói thật hay nói dối..v.v.
Thiền là lĩnh vực tâm linh, nên không thể được hỗ trợ bởi bất cứ phương tiện vật chất nào, ta phải tự lực cánh sinh. Vì phải có quyết tâm cao, chịu đựng sự đau chân, mỏi lưng, chiến thắng chính tâm trí của mình, nên lâu ngày hành giả sẽ có đức tính kiên nhẫn, ý chí sắt đá, sức chịu đựng cao, trực giác tốt..v.v.

Sơ thiền

Các mức thiền này chỉ dành cho người có quyết tâm tu tập, lìa bỏ Ái Dục. Và có chuẩn bị tâm lý trước, vì nó cần một môi trường thật sự yên tĩnh, cách ly thế gian.
Để leo lên từng mức thiền, nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào căn cơ từng người,có thể là vài ngày, vài tuần, có khi khoảng vài chục năm, có khi mười mấy hai mươi năm, có khi sang cả kiếp khác. Nếu kiếp này không lập nguyện, thề ước trước Phật thì sang kiếp sau đảm bảo quên sạch và Phàm phu vẫn là Phàm phu.
Sơ thiền là mức nhập định đầu tiên, nhưng phải là đã chứng được Chánh niệm tỉnh giác (CNTG) và phá trừ xong Năm triền cái. Hành giả như lọt vào một trạng thái thanh tịnh hơn, và tự động, chứ không còn phải gắng sức giữ gìn như trong CNTG nữa. Khi chứng được Chánh niệm, hành giả thấy tâm mình cũng đã là thanh tịnh rồi, nhưng còn phải khéo léo giữ gìn nhẹ nhẹ. Nhưng từ Sơ Thiền trở đi, hành giả không còn phải giữ gìn nữa mà tâm tự động an trú trong định. Hành giả thấy thân của mình chuyển động từ trạng thái cứng (lúc phá xong triền cái Trạo cử, xem Năm triền cái, sang trạng thái mềm lỏng như một khối nước gì nhớt nhớt giống như xà bông.
Tâm hành giả dĩ nhiên là vắng lặng, nhưng thật ra vẫn còn những ý niệm về công phu của mình, về thành tựu của mình. Những ý niệm này rất thầm lặng, nên hầu như hành giả không biết là mình đang còn ý niệm, cứ tưởng rằng mình đã hoàn toàn thanh tịnh. Phật diễn tả đó là trạng thái ly dục sinh hỷ, còn tầm còn tứ (xóa bỏ Ái Dục, đạt được An vui, nhưng còn tiềm ẩn).
Trong Sơ thiền, hành giả lìa bỏ được các ham muốn thế gian vì niềm an vui của nội tâm vừa đầy đủ, vừa thanh khiết, không cần phải giải trí bằng vật chất bên ngoài. Toàn thân hành giả luôn ở trong trạng thái vui sướng nhè nhẹ và tràn đầy. Sau khi chết, nếu vẫn còn giữ được trình độ này thì sẽ sinh vào cõi trời Sơ Thiền.
Cái ý niệm thầm kín về công phu và sự thành tựu của mình tạo nên một loại kiến giải Phật Pháp và tâm tự hào bí mật. Hành giả sẽ dễ dàng đối đáp trôi chảy và nắm bắt các lĩnh vực khó, trừu tượng, hay say sưa diễn thuyết lưu loát nếu có cơ hội. Vì vậy, tuy Sơ thiền rất là vĩ đại nhưng cũng ẩn chứa nhiều nguy cơ đối với đạo đức.

Nhị thiền

Là kết quả tiếp theo nếu hành giả đủ công đức. Hành giả sẽ thấy toàn thân mình giống như nước trong mát tuôn trào bất tận mà Phật diễn tả như hồ nước được suối phun và mưa tuôn mãi mà không bao giờ lọt nước ra khỏi hồ. Dĩ nhiên nước thì mềm hơn, lỏng hơn nước sền sệt của xà bông. Từ toàn thân cứng của Chánh niệm, tiến lên Sơ thiền thì thân sền sệt như nước xà bông, tới Nhị thiền thì thân đã mềm hoàn toàn như nước nguyên chất, và lại còn thêm cảm giác tuôn tràn mãi mãi.
Lúc này những ý niệm thầm kín cũng biến mất, nên trong đời sống hành giả không còn ham thích trình bày phô trương, và rất hiền lành. Phật gọi là hết tầm hết tứ.
Lúc này hành giả thành tựu trí tuệ rất sắc bén nhanh nhạy, kiến giải Phật pháp là bất tận vô ngại, không ai có thể hỏi vặn vẹo được, việc gì nhìn thoáng qua là biết rõ, ngồi thiền rất lâu, thường biết trước giờ chết
Nếu đừng bị tà kiến xâm nhập thì đường giải thoát của người đạt Nhị thiền là chắc chắn. Nếu bị tà kiến, lầm cho mình là viên mãn, tưởng rằng mình đã kiến tánh thành Phật, thì hành giả hưởng hết phước kiếp này qua kiếp sau sẽ bị thoái đọa lui sụt xuống mức độ thấp hơn nhiều.

Tam thiền

Được Phật diễn tả toàn thân như một bông hoa sen đang vươn lên từ trong nước, được nước bao phủ với nội tâm là xả niệm lạc trú (dứt bỏ ý niệm, thường xuyên an lạc).
Niềm vui của Tam thiền rất đằm thắm nhỏ nhiệm và đầy khắp, giống như hoa sen ngập trong nước, tẩm ướt, tràn ngập, nhưng không thấm nước, cũng vậy, niềm vui của Tam thiền rất tự tại, bình an và vượt khỏi cơ thể, giống như cả không gian đều cùng an vui vậy. Thân của hành giả lúc này giống như một khối không khí hân hoan an lạc.
Ý nghĩa của xả niệm là hành giả đã vượt qua được Vô thức (theo khoa học, Vô thức chiếm hơn 90% cuộc sống của con người, ý thức chỉ chiếm phần nhỏ). Vượt qua được nó nghĩa là tâm hồn đã thật sự ổn định. Những bản năng sinh tồn, bản năng hưởng thụ... đều bị kiềm chế.
Lúc này khi ngồi thiền nhập định, hành giả không còn nghe thấy mọi cảnh vật, tiếng động bên ngoài, hoàn toàn an trú vững chắc trong thế giới nội tâm sáng suốt vi diệu thanh tịnh của mình.

Tứ thiền

Là mức thiền cuối cùng của các bậc thiền Sắc giới. Phật diễn tả đó là trạng thái xả niệm, thanh tịnh, không lạc, không khổ. Xả niệm của Tứ thiền hơn hẳn Tam thiền vì đã hoàn toàn vượt khỏi Vô thức, kể cả Ý thức. Trong con người ta, Vô thức đảm nhận việc điều khiển hệ hô hấp, tiêu hóa, các tuyến nội tiết... những thứ mà ta không chủ động điều khiển được. Chiến thắng được Vô thức nghĩa là có thể dừng được hơi thở, dừng mọi sự sống, nhập định vài trăm năm rồi xuất định, sống bình thường, sống tiếp cái tuổi ngày xưa. Còn Ý thức thì liên quan tới các Giác quan, chiến thắng được Ý thức sẽ khai mở những khả năng của giác quan như thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông..v.v. (xem Thần thông)

Ngũ uẩn

Ngũ uẩn (zh. wǔyùn, sa. pañca-skandha, pi. pañca-khandha, bo. phung po lnga), cũng gọi là Ngũ ấm (), là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm. Ngoài ngũ uẩn đó ra không có gì gọi là cái "ta".
Ngũ uẩn là:
1. Sắc (zh.; sa., pi. rūpa), chỉ thân và sáu giác quan (hay còn gọi là lục căn, bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), do Tứ đại chủng (sa., pi. mahābhūta) tạo thành, đó là bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của chúng.
2. Thụ (zh., sa., pi. vedanā), tức là toàn bộ các cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính.
3. Tưởng (zh., sa. saṃjñā, pi. saññā), là nhận biết các cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị..., kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện.
4. Hành (zh., sa. saṃskāra, pi. saṅkhāra), là những hoạt động tâm lí sau khi có tưởng, ví dụ chú ý, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác...
5. Thức (zh., sa. vijñāna, pi. viññāṇa), bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: Ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Ngũ uẩn cũng được gọi là năm ràng buộc vì chỉ có Phật hay A-la-hán mới không bị dính mắc nơi chúng. Đặc tính chung của chúng là Vô thường, Vô ngã và Khổ. Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh nhấn mạnh đến tính Không của ngũ uẩn. Sắc (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Danh sắc cả ngoài và trong. Diệt danh sắc. Tiếp diệt cảm thọ, biết cái chân thật, biết nó vô thường mà chẳng nên theo. Diệt các tưởng lăng xăng, diệt các tưởng chấp. Quán tưởng, diệt hành. Diệt tâm phân biệt, diệt thức.
Vô ngã, đạt được vô ngã tức là ngã phật, đạt được vô ngã tức phật ngã chẳng gọi là ngã. Pháp phật không thể nói, không thể nghĩ bàn
Tính chất khổ và vô thường của năm uẩn là một trong những quan điểm quan trọng nhất của Phật giáo. Khổ xuất phát từ sự bấp bênh, không chắc thật của các uẩn đó; và con người được tạo thành từ năm uẩn đó không gì khác hơn là một sự giả hợp, không có một cái "ta" thật sự đứng đằng sau con người đó (Vô ngã). Tri kiến về tính vô ngã của ngũ uẩn là một tri kiến rất quan trọng, nó có thể đưa đến giải thoát. Đại sư người Đức Nyānatiloka trình bày như sau về tầm quan trọng đó:
"Đời sống của mỗi chúng ta thực chất chỉ là một chuỗi hiện tượng thân tâm, một chuỗi hiện tượng đã hoạt động vô lượng kiếp trước khi ta sinh ra và sẽ còn tiếp tục vô tận sau khi ta chết đi. Ngũ uẩn này, dù riêng lẽ từng uẩn hay hợp chung lại, chúng không hề tạo thành một cái gì gọi là cái ta. Ngoài chúng ra, không còn cái gì được gọi là một thể của cái ta độc lập với chúng, để ta tạm gọi nó là cái ta. Lòng tin có một cái ta, có một nhân cách độc lập chỉ là một ảo tưởng."
Joseph Goldstein cũng viết:
"Cái mà chúng ta gọi là cái ta chỉ là ngũ uẩn đang hiện hành vô chủ."

Nội dung cơ bản của Nho giáo

Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo" (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh). Cần phải hiểu cơ sơ triết lí của Nho giáo mới nắm được logic phát triển và tồn tại của nó.

Tu thân

Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được an bình.

Tam cương

Tam là ba, cương là giềng mối. Tam cương là ba mối quan hệ: quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (vợ chồng).
trong xã hội phong kiến, những mối quan hệ này được các vua chúa lập ra trên những nguyên tắc“chết người”
  • Quân thần: ("Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" nghĩa là: dù vua có bảo bề tôi chết đi nữa thì bề tôi cũng phải tuân lệnh, nếu bề tôi không tuân lệnh thì bề tôi không trung với vua)Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt luôn luôn công minh, tôi trung thành một dạ.
  • Phụ tử: ("phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu nghĩa là: cha khiến con chết, con không chết thì con không có hiếu)")
  • Phu phụ: ("phu xướng phụ tùy" nghĩa là: chồng nói ra, vợ phải theo)

Ngũ thường

Ngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
  • Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
  • Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
  • Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
  • Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
  • Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.

Tam tòng

Tam là ba; tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
  • Tại gia tòng phụ: người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha,
  • Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng,
  • Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con"

Tứ đức

Tứ là bốn; đức là tính tốt. Tứ đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có, là: công - dung - ngôn - hạnh.
  • Công: khéo léo trong việc làm.
  • Dung: hòa nhã trong sắc diện.
  • Ngôn: mềm mại trong lời nói.
  • Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
* Đạt đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân[1]. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam cương hay còn gọi là Tam tòng.
* Đạt đức. Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói: "Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân, nghĩa, lễ, trí". Hán nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này còn gọi là ngũ thường.
* Biết thi, thư, lễ, nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người quân tử còn phải biết "thi, thư, lễ, nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện.

Hành đạo

Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị quốc, thiên hạ bình ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm:
* Nhân trị. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).
* Chính danh. Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng được tóm gọn lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường).