Thứ Ba, 12 tháng 2, 2019

LỜI DẠY CỦA ĐỨC KHỔNG TỬ

LỜI DẠY CỦA ĐỨC KHỔNG TỬ
Hình hài của mẹ cha sinh
Trí khôn đời dạy, đói no tự mình
Không hơn thì cũng bằng người
Cho thiên hạ khỏi ai cười ai khinh
Sang hèn trong kiếp nhân sinh
Buồn vui sướng khổ thường tình thế thôi 


Có trí thì ham học
Bất trí thì ham chơi
Trí khôn tạo nên người
Đức nhân tìm ra bạn
Thành đạt nhờ chí sáng
Danh rạng nhờ đức dày
Làm nên nhờ có thầy
Đủ đầy nhờ có bạn
Gái ngoan nhờ đức hạnh
Trai mạnh nhờ lực cường
Tươi đẹp lắm người thương
Lực cường thương kẻ mạnh
Dễ thích nghi thì sống
Biết năng động thì nên
Đủ tài trí làm nên
Đủ sức bền thì thắng
Biết mình khi hoạn nạn
Hiểu bạn lúc gian nguy
Nghèo hèn bởi tự ti
Ngu si vì tự phụ
Tài đức cao hơn phú
Hạnh phúc đủ hơn giàu
Sống trung tín bền lâu
Tình nghĩa sâu hạnh phúc
Đủ tài thì đỡ cực
Đủ sức thì đỡ nghèo
Dốt nát hay làm theo
Hiểu biết nhiều bởi học
Hỏng việc vì hấp tấp
Va vấp bởi vội vàng
Cảnh giác với lời khen
Bình tâm nghe lời trách
Quá nghiêm thì ít bạn
Dễ dãi bạn khinh nhờn
Không hứa hão là khôn
Không tin xằng ít vạ
Làm ơn đừng mong trả
Được ơn chớ đừng quên
Nhu nhược bị ép chèn
Quá cương thì bị gãy
Cái quý thì khó thấy
Dễ thấy thường của tồi
Của rẻ là của ôi
Dùng người tồi sinh vạ
Đẹp lòng hơn tốt mã
Nền nã hơn kiêu kì
Thận trọng từng bước đi
Xét suy khi hành động
Hiểu biết nhiều dễ sống
Luôn chủ động dễ thành
Thận trọng trước lợi danh
Giữ gìn đừng buông thả
Tránh xa phường trí trá
Tai vạ bởi nể nang
Tài giỏi chớ khoe khoang
Giàu sang đừng kênh kiệu
Học bao nhiêu vẫn thiếu
Hiểu bao nhiêu chẳng thừa
Nhân đức chớ bán mua
Được thua không nản chí
Đủ đức tài bớt lụy
Đủ dũng khí chẳng hàng
Có vợ đảm thì sang
Có bạn vàng thì quý
Đói nghèo vì bệnh sĩ
Quẫn trí dễ làm liều
Tỉnh táo với tình yêu
Biết điều khi yếu thế
Lo việc nhà chớ kể
Tình nghĩa chớ đếm đong
Giữ tròn chử hiếu trung
Với tổ tiên gia tộc
Cây tốt tươi nhờ gốc
Người phúc lộc nhờ nguồn
Sống bất nghĩa tai ương
Sống bất lương tù ngục
Phải cầu xin là nhục
Phải khuất phục là hèn
Hay đố kị nhỏ nhen
Hay ép chèn độc ác
Lắm gian truân càng sáng
Nhiều hoạn nạn càng tình
Với mình phải nghiêm minh
Với chúng sinh nhân ái
Đang thắng phòng khi bại
Gặt hái phòng mất mùa
Thói quen thường khó chữa
Say sưa thường khó tỉnh
Sống ỷ lại ăn sẵn
Hay đua đòi gặp nạn
Quá dễ hay tai ương
Gia đình trọng yêu thương
Sống nhịn nhường hỉ hả
Thiếu tình thường man trá
Dẫu vàng đá cũng tan
Biết dạy dỗ con ngoan
Chịu bảo ban con giỏi
Tinh khôn nhờ học hỏi
Cứng cỏi nhờ luyện rèn
Sống vì nhau dễ bền
Sống vì tiền dễ vỡ
Rèn con từ lúc bé
Khuyên vợ lúc mới về
Muốn hiểu cần lắng nghe
Thích khoe thì trí cạn
Sống dựa dẫm ngu đần
Sống bất cần phá sản
Phận bạc dễ bán mình
Kẻ tồi chơi xấu bạn
Khốn nạn quên mẹ cha
Tốt đẹp hãy bày ra
Xấu xa nên che lại
Có ích thì tồn tại
Có hại sẽ diệt vong
Nhiều tham vọng long đong
Lắm ước mong lận đận
Hay vội vàng hối hận
Quá cẫn thận lỗi thời
Biết được người là sáng
Hiểu được bạn là khôn
Khiêm tốn là tự tôn
Kiêu căng là tự sát
Hứa trước thì khó đạt
Hèn nhát thì khó thành
Thù hận bởi lợi danh
Trang giành bởi chức vị
Giàu sang hay đố kị
Tài trí sinh ghét ghen
Tham giàu thì cuồng điên
Tham quyền thì độc ác
Vì tiền thì dễ tan
Vì tình nghĩa bền lâu
Người hiểu nói trọn câu
Kẻ dốt tâu phách lối
Có quyền thì hám lợi
Có tội thường xum xoe
Khờ dại hay bị lừa
Nói bừa hay vạ miệng
Đa ngôn thì tai tiếng
Ngậm miệng dễ được tin
Hám lợi hay cầu xin
Hám quyền hay xu nịnh
Tham quyền thường bất chính
Xu nịnh thường gian trá
Lười biếng hay kêu ca
Thật thà hay oan trái
Thẳng thắn hay bị hại
Thông thái hay bị lừa
Chiều con quá con hư
Tiền của dư con hỏng
Giàu mạnh thường thao túng
Nghèo vụng thường theo đuôi
Người tài giỏi khó chơi
Kẻ chây lười khó bảo
Thành tâm thì đắc đạo
Mạnh bạo việc dễ thành
Quân tử thì trọng danh
Tiểu danh thường trọng lợi
Bất tài hay đòi hỏi
Lọc lỏi khó khiêm nhường
Tình nghĩa thường khó quên
Nợ nhân duyên khó tả
Khó thuần phục kẻ sĩ
Khó phòng bị tướng tài
Biết chấp nhận thảnh thơi
Hay hận đời đau khổ
Của quý thường khó giữ
Con cầu thường khó nuôi
Nhà dư của hiếm hoi
Nhà lắm người bạc cạn
Khó gần người quá sạch
Vắng khách tại quá nghèo
Dễ nổi danh kị hiềm
Dễ kiếm tiền khó 
Kiếp người là duyên nợ
Lành vỡ lẽ thường tình
Bại thành bởi trí lực
Thời gian đừng uổng phí
Thời cơ chớ bỏ qua
Biết suy nghĩ sâu xa
Vững vàng khi thành bại
Cần học và hành mãi
Sẽ gặt hái thành công.

Thứ Bảy, 2 tháng 2, 2019

Tình Xuân Trong Đường Thi

Hải Đà - Vương Ngọc Long
 
Thơ Đường là một thành tựu lớn nhất, là đỉnh cao sáng chói của mấy nghìn năm lịch sử Văn học Trung Quốc. Mỗi một bài thơ Đường là một bức tranh sống động với các màu sắc hài hòa, có âm vang kỳ diệu và sức truyền cảm tuyệt vời, gợi mở, quyến rũ và đi thẳng vào lòng người đọc, để lại những suy tư trầm lắng và rung động không nguôi … Đường Thi là sự kết tụ mỹ thuật, tinh hoa văn học nghệ thuật….Mỗi một bài thơ Đường nổi tiếng xứng đáng là viên ngọc quí vô giá lung linh sáng chói, chẳng bao giờ phai nhạt qua cơn bụi lốc mịt mù và gió bão của thời gian và không gian vô tận….Bộ Toàn Đường Thi ấn hành vào năm 1707 chia làm 30 tập, gồm 900 quyển, với hơn 49.000 của ngót hơn 2200 thi sĩ . Thơ Đường có thể nói đã trải qua gần 300 năm (618-907). Dựa vào sự biến chuyển của các triều đại nhà Đường, có thể chia ra làm 3 thời kỳ tóm tắt như sau với những sắc thái riêng biệt, đặc trưng của thi ca, và phong cách, trường phái của các nhà thơ :

Thời Sơ Đường (618-713): mang phong cách của thời Lục Triều … thi vị cung đình, lời lẽ hoa mỹ ca ngợi vua chúa (thời Võ Tắc Thiên cầm quyền, mua chuộc kẻ sĩ, văn nhân tài tử để làm thơ tán tụng nhà vua ..) hoặc thi ca tình cảm ủy mị, phần nhiều chú trọng về hình thức hơn là nội dung .. thơ theo đúng những qui luật về thanh điệu và biền ngẫu. Tuy nhiên trong giai đoạn nầy có sự xuất hiện “Sơ đường tứ kiệt” , tức là bốn nhà thơ trẻ Vương, Dương, Lư, Lạc, vì ảnh hưởng của chinh chiến, ly loạn, nên thơ văn của họ gần thực tế hơn, phản ảnh được đời sống đau thương, thực trạng xã hội đương thời, hoặc những hình ảnh oai hùng ở chốn biên cương, hay bày tỏ thái độ uẩn ức đối với chế độ phong kiến đương thời. Thời Sơ Đường còn có những nhà thơ nổi tiếng như Trần Tử Ngang đề cao khuynh hướng “phục cổ”, Trương Cửu Linh với những bài thơ tình cảm nhẹ nhàng, hoặc Hạ Tri Chương, Trương Nhược Hư với những bài thơ diễn tả tình cảm tha thiết hoặc tả cảnh thiên nhiên với bút pháp tài hoa và điêu luyện. Họ đã kết hợp được trường phái hiện thực với lãng mạn .

Thời Thịnh Đường (713-846) : với sự lên ngôi của Lý Long Cơ (tức Đường Minh Hoàng) đã đề ra sự “phục bích” (dựng lại bức tường cũ), nhắc lại sự việc lật đổ Võ Tắc Thiên (705) và Lý Long Cơ diệt Vi Hậu (713) để khôi phục nhà Đường. Đường Minh Hoàng là nhà vua có nhiều tài năng, là một nghệ sĩ (tự nhuận sắc khúc Nghê Thường), say mê ca múa thi văn, quí trọng văn nhân thi sĩ, đã lập ra Văn Học quán, nơi chốn để đàm đạo thảo luận thơ văn ..Văn họcTrung Quốc vào thời kỳ nầy đã có cơ hội phát triễn rực rỡ muôn màu, muôn sắc. .. Đây là thời kỳ đã đưa thơ Đường lên đỉnh cao chói lọi. Đại diện cho thời Thịnh Đạt nầy có thể nói có bà nhà thơ rất nổi tiếng, đó là Lý Bạch, Vương Duy và Đỗ Phủ. Lý Bạch với phong cách hào phóng đại diện cho dòng thơ lãng mạn bay bổng tự nhiên, đôi khi siêu thoát ra ngoài thực tế . Thơ Vương Duy (còn là một họa sĩ có tài) man mác hương vị thiền, thanh đạm hồn nhiên, chịu ảnh hưởng của Phật Giáo Thiền Tông.. Đỗ Phủ đại diện cho dòng thơ hiện thực trữ tình, mang những tư tưởng Khổng Mạnh của một kẻ sĩ đứng đắn nhận thức được trách nhiệm đối với vua, nước và dân. Hơn nữa bản thân của Đỗ Phủ cũng sống trong cảnh cơ hàn nghèo khó. Thời kỳ thi ca của Đỗ Phủ cũng là giai đoạn cảnh thái bình thịnh trị trôi qua, khi Đường Minh Hoàng say mê nhan sắc Trương Quý Phi, bỏ bê công việc triều chính và chiến tranh nhiễu nhương xẫy ra, và chính Đỗ Phủ đã dùng ngọn bút tài ba của mình để miêu tả những hoàn cảnh xà hội tang thương trong giai đoạn nầy …Trong khi Vương Duy có những dòng thơ chịu ảnh hưởng Phật Giáo, thơ Lý Bạch man mác màu sắc Đạo Tiên, thì thơ Đỗ Phủ tiêu biểu tinh thần Nho Giáo, mang tính chất hiện thực của thời đại ..Cho nên người ta thường gọi Vương Duy là Thi Phật, Lý Bạch là Thi Tiên và Đỗ Phủ là Thi Thánh .. Thời kỳ Thịnh Đường còn có Mạnh Hạo Nhiên với những dòng thơ thanh thoát và chân thật, chịu ảnh hưởng triết lý Lão Trang . Thơ Vương Xương Linh với những bài xuất sắc diễn tả về cảnh cung đình biên tái. Những nhà thơ khác nổi tiếng trong thời kỳ nầy như Cao Thích, Sầm Tham, Vương Hàn, Vương Chi Hoán và Thôi Hiệu (Hoàng Hạc Lâu) .Vương Kiến và Trương Tịch nổi tiếng về các loại thơ nhạc phủ … Bạch Cư Dị đại diên cho dòng hiện thực phê phán vì ông đã trải qua một giai đoạn lịch sử đen tối với chế độ quan liêu phong kiến đồi trụy và Bạch Cư Dị đã dùng thi ca với những lời lẽ giản dị thành thực để mạnh dạn đấu tranh và tố cáo những hành vi áp bức, và sự bất công trong xã hội, tố cáo sự bóc lột của bonï quan lại quý tộc. Thơ của ông phản ảnh được nỗi lòng và nỗi trầm luân thống khổ của dân chúng trước thế sự thời cuộc ba chìm bảy nổi .. Cùng thời với ông có những nhà thơ khác như Hàn Dũ, Mạnh Giao, Giả Đảo, Trương Kế (Phong Kiều Dạ Bạc) v.v.. Mỗi nhà thơ có một phong cách tài hoa điêu luyện khác nhau, mỗi người một vẻ không sao kể xiết trong thời kỳ thịnh đạt nầy.

Thời Vãn Đường (846-907) : Thời kỳ nầy nhà Đường đã xuống dốc, xã hội suy thoái, hỗn loạn, nhiều cuộc nổi dậy khắp nơi vì quan lại tham nhũng, sưu cao thuế nặng . Nền văn học Trung Quốc cũng bị chuyển biến theo và thơ văn mang tính cách tiêu cực, đề cao tình yêu trai gái lãng mạn thoát vòng lễ giáo, hoặc những bài thơ vịnh sử phê phán gay gắt giai cấp quan liêu thống trị, sự tệ hại của vua quan, nỗi đau khổ của dân nghèo cô thế . Giai doạn nầy có những nhà thơ nổi tiếng như Đỗ Mục, Ôn Đình Quân, Lý Thường Ẩn , Vương Vũ Xứng…

Phân loại các nhà thơ Đường theo trường phái khác nhau có thể nói là khó khăn và phiến diện vì những nhà thơ có thể vừa miêu tả sự hiện thực trong xã hội mà cũng có những bài thơ phóng khoáng trữ tình, nghĩa là thể hiện nhiều khuynh hướng khác nhau … Đề tài trong thơ Đường có những nội dung rất đa dạng và phong phú .. có rất nhiều hình thức diễn đạt phóng khoáng từ những đề tài về an nhàn ẩn dật, vui thú điền viên, tả cảnh thiên nhiên, đến những bài thơ nói về cung đình, biên tái, chiến chinh, những đề tài liên quan đến xã hội, cảnh nghèo đói áp bức, nỗi bất công của phụ nữ, những bài thơ tâm tình, tình bè bạn thiên nhiên, đến tình yêu nam nữ, rồi những đề tài vịnh sử, hoặc những bài thơ mang hương vị Thiền, đạo giáo v.v.. không sao kể xiết ..

Trong phạm vi bài sưu khảo và dịch thuật nầy, tác giả chỉ xin giới hạn vào một số bài thơ tiêu biểu với chủ đề Tình Xuân Trong Đường Thi, mà chỉ xin trích dẫn và tuyển dịch một số trong những bài thơ Đường nổi tiếng. Các học giả tiền bối cũng như các thi sĩ hiện đại đã dịch rất nhiều những bài thơ Đường. Việc nghiên cứu, sưu khảo và dịch thuật thơ Đường đòi hỏi công phu của tác giả dịch thơ, phải tìm hiểu xuất xứ, nội dung, từ ngữ, điển tích, và nắm vững niêm luật bằng trắc, phép đối ngẫu v.v.. của các thể loại thơ Đường.. và mỗi dịch giả thể hiện một phong cách riêng biệt khi chuyển hóa qua một bài thơ Việt ..Mỗi tác giả có một cách nhìn khác nhau cũng như sự cảm nhận tình ý, và cái hay cái đẹp của một bài thơ Đường dưới các lăng kính đa dạng, nên mỗi tác giả có cách dịch thơ khác nhau, mỗi người một vẻ … nhưng phần đông các bản dịch đều diễn tả được đúng hình thức và nội dung của bài thơ gốc, thể hiện đúng ba nguyên tắc phiên dịch “ tín, đạt, nhã “ …
Tình Xuân Trong Đường Thi:
Theo định luật tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ … xuân không tự hẹn mà đến, xuân đến ở trên đồi cao bằng những bông nắng vàng tơ nở rộ, xuân đến với đồng xanh với những khúc sáo nghê thường véo von, xuân đến trên dòng sông với sóng nước bập bềnh loáng bạc mênh mang … Xuân đến như hơi thở ngọt ngào, như nhịp tim đập tự nhiên của đất trời …Bức tranh Xuân trong Đường Thi muôn màu, muôn vẻ đã thắp lên niềm tin yêu, hy vọng và lạc quan cho con người và cuộc sống đời thường vốn dầy dãy oan khiên nghiệp chướng, mịt mùng cát bụi vô thường như Thiền Sư Mãn Giác đã dặn dò tăng chúng : “Xuân qua trăm hoa rụng – Xuân tới trăm hoa tươi – Trước mắt việc đi mãi – Trên đầu già đến nơi - Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết – Đêm qua sân trước một cành mai –“ (Cáo Tật Thị Chúng)
Xuân vẫn đến đấy chứ … đến đó như giọt nắng vàng hoe treo lơ lửng trên cành , rồi lại ra đi như cơn gió dịu mát vô tình thoảng qua. Thi sĩ Bạch Cư Dị đã cho chúng ta thấy một hình ảnh nhân sinh của khổ lụy vô thường… mùa xuân trong cuộc đời cũng chỉ là một thoáng mộng mong manh ngắn ngủi … mộng đẹp đó nhưng rồi cũng dễ tan đi như mây bay gió thổi theo những buồn vui của cuộc đời…
Như hoa mà chẳng phải hoa
Giống mù mà chẳng phải là mù sương
Nửa đêm chợt đến lạ thường
Sớm mai thức giấc lên đường lại đi
Đến như thoáng mộng xuân thì
Rồi như mây sớm lại đi phương nào ?

(Như Hoa Mà Chẳng Phải Hoa -Bạch Cư Dị)

Thi sĩ Mạnh Hạo Nhiên đã mở cõi lòng ra phơi bày một cảnh sắc mùa xuân vào một buổi sáng thật sống động khi vừa thức giấc bằng mắt thấy tai nghe với những hình ảnh xuân ấm áp nồng nàn tràn đầy hương sắc dạt dào của hoa nở và thanh âm êm dịu của tiếng chim ca. Nhà thơ đã đi từ cõi mộng, bước ra khỏi “giấc xuân” để cảm nhận một mùa xuân trong thực tại hiện hữu của hương hoa thơm ngát và ngọt lành tiếng chim .. Và sau khi cảm nhận được cái đẹp xuân của thiên nhiên vũ trụ, hoà nhập với cảnh sáng mùa xuân, người thơ đã nhắc cho chúng ta biết rằng đâu phải xuân chỉ mới đến sáng nay … mà xuân đã đến tự đêm qua với mưa rơi và gió thổi để mà thương tiếc thầm cho những cánh hoa đã tàn rơi đêm qua … giữa khung cảnh thiên nhiên chan chứa hương vị thiền trong sáng :
Giấc xuân quên cả bình minh
Chim non ríu rít gọi tình muôn nơi
Đêm qua mưa gió bời bời
Biết bao hoa đã rụng rơi tứ bề

(Sáng Mùa Xuân – Mạnh Hạo Nhiên)

Nhà thơ đã đánh thức chúng ta ra khỏi cái thực tại với ngoại vật tốt tươi diễm lệ, để đi về với sự hồi tưởng tiếc thương ngậm ngùi, với giấc mộng xuân đã qua mau bất chợt …như một tuồng vân cẩu, một giấc mơ ngắn ngủi, tỉnh dậy nồi kê vẫn chưa chín … Thương xuân để mà tiếc xuân như Lý Thương Ẩn đã bộc lộ tình cảm một cách thiết tha da diết khi gió đông (tức là gió xuân) đã báo hiệu mùa xuân trở về, với sự oán trách giận hờn :
Khó dễ gần nhau, khó cách xa
Gió xuân bất lực rũ tàn hoa

(Vô Đề – Lý Thương Ẩn)

Hoặc như Đỗ Phủ đã diển tả cái buồn thấm thía sâu sắc vô cùng khi thấy hoa tàn rụng bay trước cơn gió ơ hờ của mùa xuân .. “phong phiêu vạn điểm chính sầu nhân” ..(gió tung muôn cánh thì nỗi sầu muôn phần) :
Một cánh hoa tàn Xuân kém tươi
Lòng buồn vời vợi, gió chơi vơi
Hoa xuân thấp thoáng, tình vương mắt
Hồn ngỡ bâng khuâng, rượu thấm người

(Khúc Giang- Đỗ Phủ)

Mùa xuân vừa ló dạng đó, nhưng rồi cũng khuất bóng lúc nào chẳng hay. Vui hưởng và thương xuân đó, nhưng rồi mỗi cánh hoa rụng lại báo hiệu một mùa xuân sẽ trở gót quay đi … bồi hồi thương tiếc cho một mùa xuân sắp tàn :
Thềm sân mờ tỏ nở đầy hoa
Mành lụa bên song yến hót ca
Phấn nhạt buông rèm ngồi ứa lệ
Thương xuân, xuân chẳng biết đâu mà !

(Thương Xuân Khúc – Bạch Cư Dị)
Thư thái xuân về lắm sự mong
Gió đông hây hẩy ấm xuân nồng
Tháng năm hờ hững nhìn hoa nở
Bệnh sẵn sầu dâng cảm xót lòng

(Thương Xuân – Dương Vạn Lý)

Đúng vậy …mùa xuân đã tàn phai để lại nỗi buồn khắc khoải khôn nguôi cho người thưởng ngoạn, chẳng khác gì “trong xuân sinh là thu sát điêu tàn, sau hạ trưởng là đông sầu xơ xác ..” nói lên cái định luật vô thường biến chuyển khôn lường của vũ trụ …
Chúa xuân đi mất trời thôi đẹp
Phố cũ hương tàn lạnh bóng thu

(Mộ Xuân Hoài Cảm – Đái Thúc Luân)

Mỗi độ xuân về đã gợi cho những kẻ tha phương ly xứ nỗi niềm nhớ cố quận quê hương, nơi chôn rau cắt rún một cách da diết não nùng … nhất là cặp tình nhân phải cách xa nhau vạn dặm . Vương Duy trong bài Tạp Thi nói chuyện về một đôi trai gái, nhà nàng ở ven sông Hoàng Hà, còn chàng bận công vụ phải về Giang Nam. Nhân có người về Giang Nam, nàng nhắn tin thăm chàng, và chàng cũng dọ hỏi người tin và xót xa đau lòng khi vẫn biết rằng bên song cửa nhà nàng, mai vàng đã nở hoa, cỏ cây xanh ngát, chim non ríu rít trên cành, nhưng “lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, nàng vẫn sầu muộn bên song cửa đợi tin chàng từ phương trời thăm thẳm … Những tình cảm nhớ quê, nhớ người như những cơn sóng bập bềnh đã dồn dập xao xuyến không ngừng …
Anh từ quê cũ mới ra
Hỏi thăm anh biết chuyện nhà ra sao
Nhìn qua song cửa hôm nào
Hỏi anh có thấy mai đào nở hoa ?

(Tạp Thi – Vương Duy)

Nói đến tình yêu quê hương thiết tha mỗi độ xuân về phải nhắc đến nhà thơ Đỗ Phủ, một ngôi sao sáng chói trên Thi đàn Trung Quốc vào thời Thịnh Đường . Ông là nhà nho tiến bộ, hấp thu được những tư tưởng Khổng Mạnh thâm thúy sâu sắc, có một nhận thức rất đứng đắn về nhiệm vụ, bổn phận, và vai trò của kẻ sĩ thanh liêm, nghiêm túc đối với vua, với nước và với dân .. Thơ ông đượm đà tình yêu nước thương dân nồng nàn thắm thiết, tình nhân đạo vị tha bao dung… Thơ ông đã phản ảnh trung thực đời sống trung thực của những người dân bị áp bức bóc lột dưới chế độ phong kiến tàn bạo của giai cấp quan liêu thống trị … Thơ Đỗ Phủ là tiếng nói trung thực đậm đà của chính lòng ông, gây lại một ấn tượng mãnh liệt làm xúc động người đọc .. Nỗi nhớ quê nhà của ông thấm thiết vô cùng khi mỗi độ xuân về khi thấy những cây mai vàng đã bắt đầu hé nụ :
Tháng chạp mai hé nụ
Sang năm nở đầy hoa
Biết rằng ý xuân đẹp
Sao khách vẫn sầu a
Cây chung màu tuyết trắng
Gió vờn sóng sông xa
Vườn cũ tìm đâu thấy
Núi Vu cây rườm rà

(Giang Mai- Đỗ Phủ)

Cố quận quê hương ruột thịt thì mịt mùng xa cách, nỗi nhớ nhung nơi chôn rau cắt rún khi phải sống cuộc đời lữ thứ tha phương .. một nỗi buồn mênh mông sâu lắng và dằng dặc vô cùng để nhà thơ phải khắc khoải tự hỏi “ hôm nao mới được về nhà thăm quê ?” … Bài thơ u hoài vương vấn một nỗi buồn riêng mang khắc khoải và kín đáo:
Sông xanh càng trắng chim trời
Núi cao biếc thắm rạng ngời đỏ hoa
Thấy rằng năm hết xuân qua
Hôm nao mới được về nhà thăm quê ?

(Tuyệt Cú 12 – Đỗ Phủ)

Thơ Đỗ Phủ đã biểu lộ tính cách hiện thực vì ông là nhân chứng của thời đại đã tai nghe mắt thấy được những thảm họa chiến tranh, những nỗi bi thương trầm thống của xã hội phong kiến bất công suy đồi, sự xa hoa trụy lạc của giai cấp thống trị quan liêu, và chính bản thân ông, đời sống ông cũng đã trải qua những thăng trầm tang thương qua cuộc sống cơ hàn, vất vả, và khốn khổ.. Cuộc đời ông hầu như bôn ba tứ xứ nơi đất khách quê người, nên ông đã chứng kiến thường xuyên những cảnh chiến tranh chết chóc, những nhiễu nhương của xã hội và cuộc sống bần cùng, không những của chính bản thân ông mà còn của những kẻ tha nhân không quen biết …Ông đã không được may mắn, thành công trên con đường thăng quan tiến chức như bao kẻ quyền sang biết luồn cúi và nịnh bợ triều đình … Tính tình ông quá ngay thẳng . Ngay khi ông mất nơi đất khách quê người, gia đình ông cũng không đủ tiền đem được linh cửu của ông về quê vì quá nghèo ..Thơ của ông tràn đầy tình nhân đạo sâu sắc, yêu nước thương dân… Chính thơ đã phản ảnh được cái chức năng “Thi ngôn chí “, tức thơ đã nói lên cái chí khí kẽ sĩ trong một giai đoạn lịch sử nào đó ..
Mất nước, còn sông núi
Cây cỏ mọc thành xuân
Thương tình hoa tủi lệ
Biệt ly chim bần thần
Ba tháng tràn khói lửa
Thư nhà giá vô vàn
Tóc bạc ngày thêm ngắn
Cài trâm ắt phân vân

(Xuân Vọng – Đỗ Phủ)

Những người lữ thứ nơi đất khách quê người là những người nhớ quê hơn ai hết, lòng nôn nao chỉ ngong ngóng ngày trở về quê cha đất mẹ, mỗi độ xuân về …
Vô tình nước cuốn hoa tan
Tiễn đi đông lạnh, gió ngàn bay qua
Đêm mơ hóa bướm, nhớ nhà
Đỗ quyên rền rĩ, xót xa trên cành
Vắng thư, ngày tháng trôi nhanh
Mái đầu sương điểm, xuân quanh quẩn gần
Muốn về chẳng mấy khó khăn
Ngũ hồ sương khói, dễ cầm chân ta ?

(Xuân Tịch Lữ Hoài – Thôi Đồ)

Khi làm cánh chim viễn xứ, phải rời tổ ấm của quê cha đất tổ, thì cái nỗi buồn thấm thía và da diết, nẫu nuột thấu tận tâm can phải là cái buồn xa quê hương, khi năm tàn tháng tận, vào những ngày cuối năm, mà phải lê thân quán trọ nơi đất khách xứ người, mà quê hương thì xa vời vợi …
Năm mới quê càng nhớ
Góc trời mắt lệ sa
Già lê thân quán trọ
Xuân đến người phương xa
Sớm chiều cùng vượn núi
Sông gió liễu thướt tha
Khác chi câu truyện cổ
Còn lại bao năm qua ?

(Tân Niên Tác – Lưu Trường Thanh)

Có những nhà thơ còn chút may mắn hơn Đỗ Phủ là đến cuối cuộc đời già, đã đạt được cái hoài bão về thăm quê hương … Hạ Tri Chương đi làm quan xa nhà mãi đến năm 86 tuổi vì già ốm xin từ quan về quê. Sau hơn năm mươi năm xa cách, ông mới về quê vào dịp xuân về, và ông đã cảm khái viết nên bài Hồi Hương Ngẫu Thư (2 bài). Khi ra đi chỉ mang theo kỷ niệm dạt dào và tình cảm gắn bó với quê nhà, mà sau bao nhiêu năm mải mê đeo đuổi sự nghiệp công danh, vẫn cảm thấy tình quê hương là tình cảm thiêng liêng cao quí chẳng hề đổi thay trong lòng dạ người thơ. Nhưng lúc về đến nhà thì bao nhiêu cảnh vật, sự kiện đã đổi thay, đám trẻ quê nhao nhao vì nghĩ rằng nhà thơ cũng chỉ là kẻ lạ lẫm từ phương trời nào xa lạ tạm ghé qua đây. Cha mẹ thì đã qua đời từ lâu, còn bạn bè thì kẻ mất người còn, tạo nên nỗi chán chường ảo não tuyệt vọng của nhà thơ trước cảnh biến thiên của muôn sự, cuộc đời dâu bể tang điền thương hải mong manh vô cùng, nên nhà thơ chỉ còn biết bám víu vào một hình ảnh bất biến đó là sóng nước mặt hồ Gương vẫn còn nguyên vẹn với gió xuân phe phẩy, làm dịu mát lòng người …
Trẻ ra đi, lão mới về
Tóc bông thưa thớt, tiếng quê dạt dào
Trẻ con lạ lẫm nhao nhao
Hỏi cười “Khách ở phương nào đến đây ?”

Quê nhà xa cách tháng năm
Bạn bè thưa thớt biệt tăm phương trời
Mặt Hồ Gương trước ngõ soi
Gió xuân chắc chẳng đổi đời sóng xưa

(Hồi Hương Ngẫu Thư – Hạ Tri Chương)

Nói đến mùa Xuân là nói đến nhựa sống căng tràn, là nói đến tình yêu lai láng dạt dào của những mối tình tuyệt đẹp giữa kẻ nam và người nữ . Bài thơ Đề Đô Thành Nam Trang của Thôi Hộ là một giai thoại văn học nói lên một mối tình xuân muôn thuở nầy .. Chuyện kể rằng chàng sĩ tử Thôi Hộ đi thi bị hỏng, nhân tiết thanh minh đi du xuân ở phía nam thành Đô, thấy một trang trại cây cối xanh tươi tốt đẹp, ghé lại gõ cửa xin nước uống, thì gặp một tuyệt sắc giai nhân đứng dựa cành đào, e lệ chẳng nói năng chi, mà chàng trai Thôi Hộ thì đắm đuối nhìn … Hoa đẹp mà người cũng đẹp thay! Thôi Hộ từ giã bịn rịn ra về, năm sau cũng nhân tiết thanh minh ghé lại trang trại cũ đi tìm người xưa, cảnh vẫn không thay đổi, cây đào vẫn còn đó đùa cợt với gió đông, mà người đi đâu vắng, cửa đóng khen cài.. Thôi Hộ bồi hồi thương nhớ mà cảm xúc viết thành bài thơ đem gài vào cánh cửa ….
Năm ngoái hôm nay cũng cửa nầy
Hoa đào má phấn đỏ hây hây
Người đi đâu mất, còn hoa đó
Ghẹo gió đông cười hoa ngất ngây

(Đề Đô Thành Nam Trang – Thôi Hộ)

Các nhà thơ đã lấy hình ảnh của sự vật chung quanh, những gì bình thường trong cuộc sống mà nói lên những luyến lưu nhung nhớ của những mối tình lãng mạn, tạo dựng lên những bức tranh thơ trữ tình sống động, quyến rũ người đọc . Một Thôi Hộ đã dùng hình ảnh tươi mát của cây đào cười trước gió đông để vẻ nên hình ảnh tha thướt kiều diễm của người con gái, còn Vương Duy thì dùng hình ảnh của cây đậu đỏ để thầm nói lên nỗi nhớ tương tư da diết . Có một truyền thuyết ở miền Hồ Nam có một thiếu phụ có chồng đi lính thú miền xa, chẳng may chồng chết ở biên cương, người thiếu phụ thường đứng dưới cây nầy nhớ chồng khóc thương đến chết rồi hóa thành hạt đậu đỏ, mà người ta thường gọi là hạt “tương tư” để nói lên nỗi nhớ nhung trong tình yêu trai gái hoặc bạn bè :
Nước nam đậu đỏ đâm chồi
Xuân về thắm nở xinh tươi trĩu cành
Chàng ơi hái nhé cho nhanh
Đậu xinh gợi nhớ tình xanh diệu huyền …

(Tương Tư – Vương Duy)

Những cuộc tình thật lãng mạn như duyên với nợ, gần nhau đó để mà xa nhau, để mà nhớ thương khi mùa xuân không hẹn hò và chẳng ngần ngại trở về tự nhiên .. một trái tim thơ đã ngân vang nghìn cung bậc hòa nhập vào trái tim yêu … khi gió xuân khe khẽ xuyên màn …
Cỏ Yên biếc ngọc tơ ngàn
Cành xanh trĩu nặng dâu Tần xa xa
Chàng thân viễn khách nhớ nhà
Thiếp buồn rười rượi ruột rà quặn đau
Gió xuân lạ lẫm từ đâu
Xuyên màn khe khẽ động sầu tâm ai …

(Xuân Tứ – Lý Bạch)

Mùa xuân đến, chồng đi công tác xa, vợ ở nhà nhớ chồng mà đành đoạn tâm cang, đâu còn thưởng thức được cảnh hoa nở chim hót :
Oanh vàng xua đuổi bay xa
Đừng cho chim cất tiếng ca trên cành
Chim kêu làm thiếp giật mình
Liêu tây khó đến đoạn đành tâm can

(Xuân Oán – Kim Xương Tự)

Có những nhà thơ đã bộc bạch tình cảm của mình một cách chất phác chân thành. Họ đã bày tỏ diễn đạt ý nghĩ và cảm xúc của họ đối với bạn bè một cách tự nhiên, không che đậy. Họ đã thích thú tìm thấy trong chân tình bạn hữu những tâm hồn đồng điệu hòa nhịp theo nỗi buồn trầm lắng và niềm vui cất cánh bay cao .. Hãy xem Trần Tử Ngang vào một ngày xuân tiễn bạn tri âm lên đường, chất ngất nỗi niềm nhớ nhung, tâm tình gắn bó thiết tha … lời thơ trầm bổng lưu luyến để mà hỏi “ Gặp nhau, biết bao
giờ ? ”
Khói xanh vờn đuốc bạc
Tiệc ngon thơm rượu nồng
Tri ân tình cầm sắt
Đường đi ngăn núi sông
Khuất vòm cây trăng sáng
Sông Ngân tỏa ánh mờ
Lạc Dương chừ muôn dặm
Gặp nhau, biết bao giờ?

(Xuân Dạ Biệt Hữu Nhân – Trần Tử Ngang)

Hoặc bài thơ Ngày Xuân Nhớ Lý Bạch của Đỗ Phủ, cho thấy tình bè bạn, tri kỷ là cái gì cao quí trên cuộc đời nầy …
Thơ ai hơn Lý Bạch
Ý tứ hay xuất thần
Mát tươi như khai phủ
Tài cao tựa tham quân
Vị Bắc cây xuân ngát
Giang Đông mây chiều gần
Bao giờ chia chung rượu
Nâng chén luận thi văn

(Xuân Nhật Ức Lý Bạch – Đỗ Phủ)

Hoặc như Trịnh Cốc tiễn bạn ở bến sông Dương , bên những hàng liễu tha thướt màu biếc ngọc, xuân thắm… Họ đã cùng nhau đàm đạo, uống rượu, ngâm thơ, cùng chia sẻ cay đắng ngọt bùi trên đường đời, để rồi cũng đến ngày phải chia tay, mỗi người đôi ngả… Những cánh hoa dương ủ rũ héo mòn như thông cảm cùng đôi bạn . Mùa xuân là mùa của vui tươi hạnh phúc, của đoàn viên sum họp mà phải chia ly thì đâu có cảnh nào buồn
hơn …
Liễu xanh rờn bến sông Dương
Chạnh lòng ly khách hoa dương héo mòn
Ly đình sáo gió véo von
Tiêu Tương bạn đến, hướng Tần tôi đi

(Hoài Thủy Biệt Hữu – Trịnh Cốc)

Những buổi chiều cuối năm khi nhà thơ nhìn nắng tàn rơi rụng ngoài sân, một nhánh mai vàng vừa hé nụ, báo hiệu cho mùa xuân mới sắp đến, làm nhà thơ dâng tràn cảm xúc ngậm ngùi .. khi nhớ quê, nhớ bạn, tự xót thương cho cảnh ngộ của mình .. Tác giả mượn thể thơ thuật hoài để bày tỏ nỗi lòng u uẩn, bang khuâng, đồng thời hé mở cho thấy cái quan niệm về nhân sinh và cuộc đời, như bài thơ “Nỗi Lòng Đêm Cuối Năm” của Lưu Vũ Tích :
Suốt năm không vừa ý
Năm mới biết sao đây ?
Bạn bè xưa thương nhớ
Bao kẻ còn hôm nay
Lấy nhàn mà vui sống
Tuổi thọ bù gian nguy
Xuân đâu cần mới cũ
Chốn cùng cũng ghé ngay

(Tuế Dạ Vịnh Hoài- Lưu Vũ Tích)

Có những bài thơ mang tính hiện thực, có tinh thần xã hội tiến bộ, khi nhà thơ đã dùng thi ca để phản ảnh bộ mặt thực đen tối của xã hội, cái suy đồi của chế độ phong kiến, cái bất công của giai cấp thống trị vua chúa, cái bất nhân xấu xa của những ông quan có thế lực và tiền tài .. Những bài thơ mang tính chất xã hội có giá trị và đó chính là cái chức năng thiêng liêng và cao quí của kẽ sĩ chân chính .. Người phụ nữ trong chế độ quan liêu phong kiến bị ràng buộc bởi những quan điểm hủ lậu nghiệt ngã như “trọng nam khinh nữ” họ chỉ là những bóng mờ bên lề cuộc đời.
Cung Tây đêm vắng ngát hoa xuân
Muốn cuốn rèm châu oán hận dâng
Ôm ấp cung đàn nghiêng dáng nguyệt
Chiêu Dương mờ mịt bóng cây ngàn

(Tây Cung Xuân Oán- Vương Xương Linh)

Những tháng ngày tuổi xuân phơi phới của cung tần mỹ nữ đã bị đày đọa, chôn vùi trong thâm cung, cấm thành, có khi suốt cả cuộc đời chưa thấy mặt quân vương …
Lầu cao bóng liễu nghiêng che
Oanh ca hót sớm thảm thê cung tần
Hàng năm hoa rụng ai màng
Suối xuân đưa đẩy xuôi dòng ngự câu

(Cung Oán – Tư Mã Lễ)

Người phụ nữ trong cung cấm không được quyền có hạnh phúc, sau một thời gian sung sướng, họ không còn được ơn mưa móc, tự chấp nhận số phận hẩm hiu, âm thầm quạnh quẽ chôn vùi cuộc sống cô đơn trong chốn thâm cung lạnh vắng ủ ê sầu …
Ơn vua thất sủng biết về đâu ?
Thoảng chút hương xưa áo múa nhàu
Tự giận thân mình thua cánh én
Xuân về quanh quẩn bức rèm châu

(Trường Tín Cung – Mạnh Trì)

Họ mỏi mòn lê dài cuộc sống vô vọng, để thời gian vô tình tàn phai nhan sắc, và đôi khi ngẩn ngơ, chua xót và thương tiếc vu vơ cho thời gian hương phấn vàng son đã trôi qua :
Tuyệt trần tuyết phải nhường hoa
Hương thơm thoang thoảng vào tà áo vua
Gió xuân đâu biết bông đùa
Bay về thềm ngọc gió lùa bâng khuâng

(Tả Dịch Lê Hoa – Khâu Vi)

Họ phải âm thầm chịu đựng, nhẫn nhục, chấp nhận cuộc sống lạnh nhạt, lẻ loi, như một bổn phận , hay đúng hơn một sự tự chấp nhận cái thân phận không may mắn, như một duyên phận, định mệnh của cuộc đời hồng nhan hẩm hiu, mong manh ..
Đẹp xinh càng duyên bạc
Muốn về biếng gương soi
Ơn vua chẳng vì sắc
Trang điểm chi vẽ vời
Gió xuân mừng chim hót
Bóng hoa rợp ánh trời
Bao năm cô gái Việt
Phù dung hái nhớ người

(Xuân Cung Oán- Đỗ Tuân Hạc)

Hoặc có những nỗi oán phòng khuê … khi người phụ nữ tự ăn năn hối hận tại sao không biết giữ chồng ở nhà lo việc canh nông đồng áng mà chỉ mong chồng lên đường kiếm tước hầu quyền cao chức trọng …
Thiếu nữ phòng khuê chẳng biết sầu
Ngày xuân tô điểm bước lên lầu
Bên đường chợt thấy hàng dương liễu
Hận xúi phu quân kiếm tước hầu

(Khuê Oán – Vường Xương linh)

Phần đông những kẻ sĩ thời phong kiến chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng triết lý Khổng Mạnh hoặc Lão Tử, mỗi người có một cảnh ngộ khác nhau, để tùy theo đó mà có tư tưởng thái độ và hành động khác nhau . Từ cuối đời Hán đạo Phật du nhập dưới các phái Thiền Tông đã có ảnh hưởng sâu xa đến lối suy nghĩ, hành động, và cảm hứng của các thi nhân. Thơ đã phản ảnh được cái chí hướng, nhận thức, tình cảm và nếp sống của con người …Có những nhà thơ xem thường cuộc sống bon chen danh lợi, chán ngán thời thế mà chỉ thích ngao du sơn thủy, những dòng thơ của họ mang tính lãng mạn tiêu cực. Họ mang tư tưởng “lạc thiên tri mệnh”, muốn lui về ở ẩn sống yên vui qua ngày tháng :
Sống nhàn suy nghĩ triền miên
Đến, đi là sự ngẫu nhiên trên đời
Gió chiều đẩy chiếc thuyền trôi
Đường hoa thơm ngát mời người vào khe
Núi Tây đêm phủ mây che
Sao Nam lấp lánh bốn bề núi cao
Mịt mù sương khói đầm ao
Phía sau rừng thấp trăng sao tỏ mờ
Chuyện đời bỏ mặc ngu ngơ
Ôm cần câu cá nhởn nhơ vui đời

(Xuân Phiếm Nhược Da Khê – Cơ Vô Tiềm)

Chịu ảnh hưởng của đạo học, lấy tư tưởng vô vi xuất thế làm kim chỉ nam cho thực tại nhân sinh, xem công danh sự nghiệp, phù vinh phú quý như mây trôi gió thổi:
Xóa buồn đi, cứ vui chơi
Bận tâm danh ảo, thì đời mất vui !

(Khúc Giang – Đỗ Phủ)

Chán chê nếp sống xa hoa cung đình, từ chối cái hào nhoáng áo mũ xênh xang, có khuynh hướng thoát ly tiêu cực, thích vui thú điền viên, thơ văn của họ mang vẻ đẹp của bức tranh sơn thủy mộc mạc hữu tình, chan chứa đạo vị, an nhiên, dịu dàng và trong sáng…
Cõi trần xa lánh mười năm
Non xanh gối mộng đêm nằm trăng mơ
Lầu son... giấc ngủ vật vờ
Kiếp phù vinh chẳng có cơ thanh bần
Việc triều cương lắm gian truân
Sống say sưa chỉ thêm phần chán chê
Thôi thì quẩy sách về quê
Hoa cười chim hót bốn bề hương Xuân

(Quy Ẩn – Trần Phốc)

Họ an thân ẩn dật sống vui thú với rừng xanh ngan ngát cỏ hoa, suối chảy róc rách, chim kêu vượn hót, những khung cảnh thiên nhiên nhàn hạ, bình dị và tĩnh mịch.. Họ sống cuộc đời thanh cao đạm bạc … nên những lời thơ thường siêu thoát nhẹ nhàng, thoát tục, mang mang đạo vị …
Sang hèn tuy khác bậc
Ra đường phải tranh nhau
Riêng ta không ràng buộc
Sống chẳng phải lo âu
Mưa phùn đêm rơi nhẹ
Cỏ mọc nào biết đâu
Núi xanh trời rạng sáng
Chim ríu rít nhà sau
Thiền sư đôi khi gặp
Tiều phu dạo cùng nhau
Thua kém mình yên phận
Phú quí chẳng bền lâu

(U Cư – Vi Ứng Vật)

"Cuộc đời như giấc mộng – Làm chi thêm cực mà ..” thì cuộc đời cũng chỉ là “hoàng lương mộng” tỉnh giấc mà nồi kê vẫn chưa chín … nhà thơ Lý Bạch đã sống rất phóng túng ngạo nghễ, cách ly xã hội phiền toái, xa lánh trật tự quan liêu phong kiến của triều đình, xem thường cái quan điểm luân lý câu nệ, lễ giáo gò bó của nhà nho, nên những vần thơ của ông cũng phản ảnh sự bất chấp phóng túng hào hoa của ông rất tự nhiên :
Cuộc đời như giấc mộng
Làm chi thêm cực mà
Suốt ngày say bí tỉ
Ngủ lăn trước hiên nhà
Thức dậy nhìn sân trước
Chim hót vui đời hoa
Ngày nào hôm nay nhỉ
Gió xuân vờn oanh ca
Nhìn cảnh mà ngao ngán
Thấy rượu đành rót ra
Nghêu ngao chờ trăng sáng
Hát xong quên sầu ta

(Xuân Nhật Túy Khởi Ngôn Chí- Lý Bạch)

Có những nhà thơ đã muốn tự tách mình ra ngoài cái phiền toái của xã hội phức tạp, cái hưng phế thăng trầm của lịch sử triều đại, không đoái hoài đến cái vòng luẩn quẩn của phù hoa danh lợi, chỉ thích một cuộc sống nhàn dật vô vi, an nhiên tự tại với núi, sông, mây, gió .. Thái Thượng Ẩn Giả là ai ? những người cùng thời với ông chẳng ai hay biết … Ai hỏi thân thế nhà thơ ? ở đâu ? đi dâu ? Ông chỉ làm bài thơ “Đáp Nhân” (Trả lời người hỏi) … ở đâu, đến đâu cũng chỉ là sự tình cờ ngẫu nhiên … nói lên cái phong độ thư thái của người thơ … Dù cho xuân, hạ, thu, đông bốn mùa thay lá theo định luật tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ .. nhưng tâm hồn và quan niệm sống của người thơ vẫn không thay đổi, vượt thoát ra cái vòng cương tỏa của thời gian sách lịch, của xã hội tầm thường
Tình cờ bước đến gốc thông
Gối cao trên đá giấc nồng chiêm bao
Khó tìm sách lịch núi cao
Rét run đã dứt năm nào chả hay ?

(Đáp Nhân – Thái Thượng Ẩn Giả)

Những bài thơ đã diễn tả tâm trạng bi quan yếm thế … những người đã ngán ngẫm cảnh phù phiếm xa hoa, đã kinh sợ những chông gai cạm bẫy, những phản trắc của cuộc đời cát bụi vô thường … để bây giờ muốn trút bỏ tất cả những tục lụy trần ai của cuộc đời mà tìm đến thiền môn …. Một nơi chốn không còn hận thù tranh chấp, không còn đố kỵ nhỏ mọn ….
Trâm anh trút bỏ tặng quanh làng
Ngán ngẩm xuân tàn tóc cắt ngang
Kinh sợ đời người như nến gió
Giờ đây thân xác tựa sen vàng
Mở xem lá bối lầm chương gấm
Lần học trang kinh ngỡ bụi đàng
Sắc đẹp là không, thôi giã biệt
Sông Tương chắc vắng kẻ quyền sang

(Kỹ Nhân Xuất Gia – Dương Tuân Bá)

Một bài thơ tình mang gốc huyền thoại thần tiên mà người đời vẫn còn ưa thích, đã trở thành điệu hát ca trù rất phổ biến đó là Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai gồm 5 bài thơ chung một chủ đề ..Lưu Thần Nguyễn Triệu vào núi Thiên Thai hái thuốc và gặp hai tiên nữ rất xinh đẹp, mời Lưu Nguyễn về nhà tiếp đãi ân cần. Ở trong núi nửa năm, Lưu Nguyễn xin trở về nhà.. về đến trần gian đã trải qua bảy đời người . Trong 5 bài thơ đó có bài thơ tả “ Tiên Nữ Trong Động Nhớ Lưu Nguyễn” vào một ngày xuân thanh vắng :
Gảy khúc nghê thường chẳng có ai
Mộng trần đâu biết mộng tiên dài
Trời riêng góc động xuân yên ắng
Nẻo khuất dương trần nguyệt úa phai
Khe thắm cỏ tiên vờn cát ngọc
Suối thơm đào ngát nước xanh trôi
Mỏng manh sương sớm đèn trong gió
Muốn gặp chàng Lưu biết hỏi ai ?

(Tiên Tử Động Trung Hữu Hoài Lưu Nguyễn – Tào Đường)
Có những bài thơ hoài cổ vịnh sử, phản ảnh những giai đoạn thăng trầm của lịch sử … như bài Xích Bích Hoài Cổ của Đỗ Mục. Người thơ đã dùng những sự kiện hư cấu để làm câu chuyện thêm hứng thú bằng cách đưa ra một di tích lịch sử phát hiện được trên bãi chiến trường xa xưa, đó là một thanh kích sắt đã gãy và bị chôn vùi trong đất cát lâu ngày, để nhắc lại truyện xưa. Chu Du là danh tướng Đông Ngô thời Tam Quốc, là bạn của Tôn Sách và có công giúp Tôn Sách xây dựng nước Đông Ngô. Khi Tào Tháo đem quân xuống đánh, nhờ Khổng Minh cầu ngọn gió đông về để giúp Chu Du thực hiện được kế hỏa công đốt phá doanh trại của Tào Tháo, chiến thắng trận Xích Bích vẻ vang .. Hai Kiều đây có ý nói là hai người đẹp nổi tiếng của Đông Ngô, Đại Kiều vợ của Tôn Sách và Tiểu Kiều vợ của Chu Du … Trong bài thơ vịnh sử nầy Đỗ Mục đã đặt giả thuyết nếu không có ngọn gió đông giúp Chu Du thì Đông Ngô bại trận và hai nàng Kiều đã bị bắt về đài Đông Tước …
Kích vùi trong cát, sắt chưa tan
Mài rửa, triều xưa thấy rõ ràng
Giá thử Chu Du không được gió
Hai Kiều bị giữ chốn đài xuân

(Xích Bích Hoài Cổ – Đỗ Mục)

Mùa Xuân đến mọi nơi, nhưng không phải nơi nào cũng là chốn để vui xuân, thưởng xuân .. khi mà chiến tranh khói lửa triền miên đã xảy ra, gây bao cảnh biệt ly, tang tóc … Ở những chốn biên cương, đèo heo hút gió … xơ xác ảm đạm thì mùa xuân chỉ còn hoang vắng, lạnh lẽo, thê lương … “mộ biếc ba xuân đầy tuyết trắng “ như những lời than oán rền rĩ của người lính thú biên cương, phải đằng đẵng xa gia đình bao năm tháng …như trong bài thơ tả cảnh biên tái như sau :
Bao năm ải Ngọc với sông Vàng
Mỗi sáng roi vờn với kiếm cung
Mộ biếc ba xuân đầy tuyết trắng
Hắc sơn muôn dặm uốn sông Hoàng

(Chinh Nhân Oán – Liễu Trung Dung)

Xuân đến và xuân đi như gió thoảng mây trôi … Xuân đến cho muôn hoa đua nở, mạch sống tuôn tràn … Xuân đi cho hoa lá héo tàn , lòng người cô quạnh, cảnh trời hiu hắt ..Tuổi xuân cũng chỉ ngắn ngủi tấc gang, chẳng sống được dài lâu .. Xuân đã đi rồi đi đem lại nỗi sầu tàn phai, thương tiếc, nhớ nhung như hai nhà thơ Hàn Dũ và Vương Duy đã bộc bạch :
Biết xuân chẳng ở dài lâu
Cỏ cây khoe sắc muôn màu khắp nơi
Quả du hoa liễu kém tươi
Chỉ còn bông tuyết khắp trời bay giăng

(Vãn Xuân- Hàn Dũ)
Già theo ngày tháng trôi nhanh
Năm quanh quẩn hết, xuân xanh đến hoài
Vui cùng cốc rượu mà say
Cần chi thương tiếc hoa bay ngoài trời

(Tống Xuân Từ – Vương Duy)

Mùa xuân trong Đường Thi là bức tranh thủy mạc màu sắc hài hòa, có những nhà thơ tả cảnh thiên nhiên núi sông cây cỏ hoa bướm bằng những nét chấm phá đơn sơ, mộc mạc, nhưng đó là những gam màu pha trộn của một nghệ thuật hội họa tinh vi và sâu sắc .. Bằng những tầm mắt xa rộng, họ đã cho chúng ta thấy cái huyền diệu của thiên nhiên vũ trụ bao la, của hương vị Thiền và Đạo man mác , của sự thư thái và an nhàn để mà suy tư về sự vô thường và hữu hạn của cuộc đời . Những hình ảnh linh động và âm thanh dạt dào trong ngôn từ tinh vi cô động đã biểu hiệu cảm xúc chân thành, và gợi lên những liên tưởng thâm thúy và tư duy mẫn cảm .. Hãy lắng nghe tiếng chim kêu lanh lảnh bên khe suối mùa xuân của thi sĩ Vương Duy :
Người nhàn hoa quế rụng
Đêm xuân núi đìu hiu
Trăng lên chim thảng thốt
Khe xuân vọng tiếng kêu

(Điểu Minh Giản – Vương Duy)

Bài thơ tả tình và cảnh một cách rất nghệ thuật, mông lung giữa làn sương khói u hoài và ánh trăng soi huyền diệu trên bến nước dập dềnh mênh mông … làm người đọc phải bần thần suy tư : đó là bài thơ “Đêm Hoa Trăng Trên Sông Xuân” của Trương Nhược Hư . Nhà thơ đã xử dụng ngôn ngữ thẩm mỹ một cách tài tình, những hình ảnh âm thanh sống động có sức gợi cảm ngân vang, cùng với sự sáng tạo, tưởng tượng liên kết lạ lùng, gây nên những tác động mạnh mẽ và sự tiếp thụ phong phú nơi người đọc . Bài thơ đã dẫn dắt người đọc đưa những bước chân hụt hẩng vào một thế giới cảm xúc mênh mang của cụ thể và trừu tượng, của vô hình và hữu hình, của thực chất và mộng ảo …
Biển vắng sông êm gợn nước bằng
Lung linh trăng tỏ sóng triều dâng
Mênh mông theo sóng trôi ngàn dặm
Xuân thắm sông nào chẳng có trăng ?

Sông quanh đất ngát thoảng hương đầy
Trăng sáng rừng hoa ngỡ tuyết bay
Lất phất sương rơi nào có thấy
Sông dài cắt trắng chẳng ai hay

Tinh khiết trời sông một sắc màu
Trăng soi vằng vặc suốt đêm thâu
Hỏi ai đã thấy vầng trăng cũ
Có nhớ năm nao rực bến đầu

Kiếp người dâu bể mãi sinh sôi
Trăng chiếu bên sông cũng thế thôi
Chẳng biết vì sao trăng rạng rỡ
Sông dài giục giã nước buông trôi

Lơ lửng mây trôi trắng xóa màu
Hàng phong bến vắng động tâm sầu
Đêm nay thuyền nhỏ ai rong ruổi
Trăng sáng lầu cao gợi nhớ nhau

Quạnh quẽ vầng trăng dạ thốn đau
Sáng soi gương điểm kẻ ly sầu
Luyến lưu trăng ngủ trên thềm ngọc
Quanh quẩn chày đêm dẫu quét lau

Càng ngóng trông nhau cứ biệt tăm
Xin trăng xoải bóng đến thân chàng
Khó mang ánh nguyệt ràng chân nhạn
Rồng cá đua bơi gợn sóng vàng

Hoa rơi đầm vắng mộng đêm qua
Tiếc nửa đời xuân cố quận xa
Sóng nước trôi xuân, xuân sắp tận
Đầm tây trăng xế lạnh đêm tà

Trăng chìm sóng biển dặt dầy sương
Núi Kiệt sông Tương bóng mịt mùng
Mấy kẻ cưỡi trăng nào có biết
Bến cây trăng lạnh nghĩ mà thương …

(Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ – Trương Nhược Hư)

KẾT LUẬN : Thế giới Đường Thi là một bức tranh thủy mặc hài hòa với những con chữ lẫn hồn thơ, là một sự phối hợp tuyệt tác giữa các màu sắc tuyệt mỹ và âm thanh trầm bổng làm quyến rũ người thưởng ngoạn vô cùng … Trên thi văn đàn Trung Quốc, mỗi một thi-sĩ có một cá tính sắc thái riêng biệt, một phong cách và khuynh hướng khác nhau.. Trong phạm vi thu hẹp đề tài “ Tình Xuân Trong Đường Thi” chúng tôi chỉ xin đan cử một số bài thơ xuân tiêu biểu mà thôi, chứ thật ra kho tàng của Đường Thi chất ngất vô vàn, như khu rừng trùng trùng điệp điệp đầy hoa thơm cỏ lạ… Những người yêu thơ dầu ở cách xa nhau ngàn dặm, không nói, mà vẫn có những điểm tương đầu ý hợp khi cảm xúc được một bài thơ hay, một câu thơ đẹp, một ý thơ thâm thúy nào đó …
Tác giả nếu có gì thiếu sót hoặc bất cẩn xin quí cụ túc nho trưởng thượng miễn thứ, và mong bạn đọc yêu thơ Đường miễn chấp . Tác giả xin chân thành cảm tạ .
Vì chúng tôi chưa có nhu liệu cần thiết để đưa nguyên tác bài thơ chữ Hán lên liên mạng, xin quí bạn đọc thông cảm.

Hải Đà - Vương Ngọc Long