Thứ Tư, 20 tháng 11, 2019

Lời Phật dạy về chữ Nhẫn

Người xưa thường hay nói : một câu nhịn chín điều lành, hay “chữ nhẫn là chữ tương vàng, ai mà nhẫn được thì càng sống lâu”. Còn trong Phật giáo, chữ Nhẫn luôn được nhắc đến như đức tính cao quý nhất.

Nhẫn là gì?

Đầu tiên, chúng ta cần hiểu định nghĩa: Nhẫn là nhẫn nhục, là nhịn, là chịu đựng phần kém về mình, phần thiệt thòi về mình. Đây là pháp tu của Bồ Tát: bố thí trì giới…mà mục đích là tu và độ chúng sinh (lợi mình lợi người).
Nếu không biết nhẫn thì trong tâm hồn luôn có một ngọn lửa, chờ gió nhẹ thổi tới là bùng cháy. Nhiều người không hiểu nói nhẫn là nhục lắm…đó chỉ là sự đè nén, chịu đựng…nếu vậy chưa phải là nhẫn. Nhẫn nhục là giữ thái độ hòa hiếu, hóa giải những phiền não do sự sân giận đem lại, và khi sân giận mang lại hầu như không có kết quả tốt đẹp như câu ngạn ngữ “giận quá mất khôn” mà chúng ta từng nghe.
Trong Phật giáo, chữ Nhẫn luôn được nhắc đến như đức tính cao quý nhất.

Những trường hợp nào chúng ta cần phải nhẫn nhục ?

Nhẫn nhịn khi bị người khác xúc phạm: Người nhỏ hơn, hay bằng mình xúc phạm : vô lễ, hỗn, có thái độ chống đối…
Khi ở nhà chúng ta bị con cháu vô lễ nếu không biết nhẫn thì mình phải sao ? chửi cha nó chứ không thèm chửi nó, hoặc giận nữa thì chữi ông nội nó... Đối với phật tử chúng ta cũng vậy, nếu chúng ta không biết nhẫn thì việc tu tập chưa đạt ý nguyện, có khi mình là người quy y lâu, đến chùa tu học, công quả cũng lâu, nay gặp mấy đứa nhỏ hơn mới vô, mình góp ý nó, nó nói bà lấy quyền gì mà nói tui, chùa này chỉ có trụ trì thôi…
Bị lớn hơn, có uy quyền hơn xúc phạm: chèn ép, tước đoạt hết quyền lợi, tại vì thấy mình nhỏ, nghĩ rằng không biết…nên dùng cái quyền người lớn để dọa nạt. Nên chúng ta là người lớn hơn phải dùng điều đúng để đối xử…
Người có uy quyền: Chúng ta đang sống trong một xã hội độc lập, tự do, hạnh phúc…mục tiêu của Đảng, Nhà nước đưa đất nước tiến tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh… Tuy nhiên trong lộ trình hướng tới đó, có khi chúng ta cũng gặp một vài trường hợp bị xúc phạm, nếu có xảy ra thì chúng ta phải làm sao? Phải nhẫn, vì đó chỉ là một vài trường hợp cá nhân thôi, chứ chúng ta không thể đổ lỗi hết cho cả xã hội .
12347599_1061242553896280_4365597912792294670_n

Nên chúng ta phải nhẫn để quán chiếu, để hóa giải, để tìm hướng giải quyết, chứ không thể có hành động tiêu cực dẫn đến hậu quả không tốt.
Còn cả hàng trăm hàng ngàn trường hợp làm cho ta không được như ý: có những trường hợp từ trên trời rớt xuống, là thế nào, thiên tai bão lũ, thời tiết nóng lạnh, mưa gió bất thường, sụp đất, đá lỡ… chúng ta phải dùng chữ Nhẫn mà tu, nếu không tu nhẫn, gặp việc tức giận quá, không biết làm sao, ra đứng ngoài sân nhìn lên cao la làng lên, “ trời ơi ngó xuống mà coi, sao ông ăn ở ác quá…” thực chất có trời nào nghe mình la không ? trời là lòng mình. Ở đời ai cũng muốn thuận lợi về mình, nếu khi không được thì phải cầu cạnh, mà người có khả năng giải quyết cho mình, thì còn biết bao nhiêu việc người khác nữa, nên nếu không được như ý của mình thì phải nhẫn.
Còn có những trường hợp do mình tạo ra, hay trong gia đình nhỏ bé của mình, chồng nói một tiếng, vợ không nhẫn cãi lại...tức giận đánh nhau, người nào cũng không chịu phần lỗi, cho mình là đúng. Trong trường này một trong hai người dùng chữ nhẫn có thể nhận trách nhiệm về mình “ anh ơi…em biết lỗi rồi mà!” thì mọi việc sẽ theo diễn tiến khác, có khi tốt đẹp hơn rất nhiều.
Nhưng không chịu nhẫn được thể hiện qua những lời nói xuất phát tự con tim, hay đáy lòng, thì dồn nén đó, tội nghiệp cho ai… cho con, cho đồ vật, cho vật nuôi…
nhan-voi-nguoi

Đối nghĩa với nhẫn nhục là nóng giận:

Chúng ta thấy thường ngày trong cuộc sống, một người nào đó, không thấy họ nhẫn nhịn, thì điều gì ở họ cho chúng ta dễ nhận ra họ? “ sân” sân giận là một trong ba món độc của thế gian. "Một niệm sinh tâm khởi, bá vạn chướng môn khai”. Hoặc chúng ta sống chung, hay hợp tác làm ăn với những người này thì không thuận lợi cho mấy. Trong gia đình vợ chồng sống với nhau một nhà, chồng nóng nảy quá, thì làm khổ vợ con, hoặc có khi trong nhà chẳng may có đứa con nóng nảy thì cũng vậy… nếu chống đối thì mất hạnh phúc. 
Có một dạng tương đương với sân, “phẫn” bên ngoài không thấy biểu hiện gì, nhưng trong lòng họ đang dồn nén để tìm các trả thù, đạo Phật không chấp nhận cách nhẫn nhục này, mà nó là nóng giận đang biến tướng, dạng tâm lý này rất tai hại…
Nhẫn nhục cho chúng ta điều gì?
Thực hiện được sự nhẫn cũng là giữ sức khỏe cho mình: tim, huyết áp..

Nếu chúng ta thực hiện được sự nhẫn, thì bản thân rất được nhiều người thương mến, dễ gần, gia đình hạnh phúc, xã hội được tốt đẹp hơn. Xã hội Việt Nam chúng ta thường hay nói về mối quan hệ tình cảm giữa mẹ chồng và nàng dâu. Và sự việc đều không tốt đẹp bao giờ cũng đổ lỗi cho những bà mẹ chồng, mà nguyên nhân sâu xa nhìn chung là nghiêng về nàng dâu. Vì bởi cô dâu là người ngoài, họ có mặt tại nhà chồng để làm gì, và họ được gì ? Nên họ phải là người phải hội đủ tiêu chuẩn mà các bà mẹ chồng đưa ra. Nếu hiểu điều đó cô dâu cố gắng sống tốt, bên cạnh đó áp dụng chữ Nhẫn thì mọi điều sẽ tốt đẹp:
“Học pháp nhẫn chẳng sanh oan trái
Giữ tâm không khỏi phải lụy phiền
Sống cõi đời thông thả bình yên
Hướng nẽo đạo diệu huyền trực chỉ”
Hơn nữa thực hiện được sự nhẫn cũng là giữ sức khỏe cho mình: tim, huyết áp..
Để trả hết nghiệp: theo đạo Phật sở dĩ chúng ta có mặt trong thế giới này, là do chúng ta tạo nghiệp hoặc thiện hoặc chẳng thiện, nên chúng ta sống ở đây là để trả nghiệp, cho mau hết, cho dứt để có được an vui. Vừa trả nghiệp mà vừa làm sạch nghiệp, cũng giống như vừa tu mà chỉ người khác tu, để làm thay đổi Nghiệp. Vừa nhẫn mà vừa tìm phương tiện khéo léo để họ cũng nhẫn như mình, cũng từ bi nhân từ như mình, khi đã hiểu ra thì sạch nghiệp với nhau, và sống an vui hạnh phúc đời này và đời sau.
Không cố chấp: coi như trình độ nghiệp lực ngay cỡ đó thì họ ăn nói, hành động cỡ đó, và mình là người gặp phải nghiệp, chuyển sang từ thiện, tụng kinh, làm một việc gì đó, nhớ là đừng đi nhậu, hay tự vẫn...

Phương pháp tu Nhẫn :

Chúng ta đưa ra nhiều về tác hại, và lợi ích, bây giờ là mấu chốt quan trọng trong buổi nói chuyện hôm nay, đó là phương pháp tu. Có thể nói có vô số cách mà đức Phật dạy để chúng ta hóa giải nó. Nhưng chúng ta có thể đưa ra một vài phương pháp sau:
Niệm Phật: luôn thường xuyên niệm Phật thường ngày, chúng ta tập niệm Phật, Bồ Tát, vì lúc đó nhất tạm niệm Phật, sẽ mang đến sự tập trung  vào chánh pháp, không thèm để ý đến những sự việc bên ngoài
Quán tưởng: trong đời sống cái gì cũng có mặt tốt và xấu của nó. Khi gặp cảnh chúng ta chia làm hai phần, phần xấu thì mình quán, đây là nghiệp của họ, không ngu gì mà phải hơn thua phần này. Bên cạnh đó còn có cái tốt thì giữ cái tốt để giao lưu với họ. quán xem trong sự việc này có lỗi của mình…không đời này cũng đời quá khứ. Và không thì nghĩ đến cái đám tang (vô thường) vừa đi tiễn đưa hôm qua, hay vào nghĩa trang mà nhìn.
Không cố chấp: coi như trình độ nghiệp lực ngay cỡ đó thì họ ăn nói, hành động cỡ đó, và mình là người gặp phải nghiệp, chuyển sang từ thiện, tụng kinh, làm một việc gì đó, nhớ là đừng đi nhậu, hay tự vẫn...
Nuôi dưỡng từ bi và quyết tâm hành trì: Khi một đứa trẻ khóc ré tức giận, thì đâu thể mắng mỏ nó, mà thương nó, và tìm hiểu xem nó đang cần gì, để có thể đáp ứng cho nó. Và nếu không đáp ứng được thì thương cho nó, nó khóc riết rồi sẽ không tốt cho sức khỏe hay bản tánh của nó. Cũng vậy khi ai đó hành động không tốt với ai đó, hay với chính mình, thì khởi lòng thương họ vì họ đang tạo nhân ác, và quả của họ sẽ khổ đau, và chết bị rơi vào địa ngục.

 








Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã từng một lần nghe qua giai điệu thật nhẹ nhàng, man mác buồn này, với những điệp khúc được trình bày bằng những giọng bè thật nhuần nhuyễn. Tên gốc tiếng Anh là Greenfields - còn được biết đến qua phiên bản tiếng Việt “Đồng Xanh” hay tiếng Pháp “Verte Campagne” - bài hát này đã đi vào lòng người qua phần trình bày tuyệt diệu từ đầu thập niên 1960 của bốn chàng sinh viên Mỹ yêu âm nhạc, nhờ tình cờ mà đã lập ra nhóm ca khúc The Brothers Four nổi danh. Greenfields ngày nay luôn hiện diện trong danh sách ca khúc tiêu biểu của dòng nhạc folk đương đại.
Trước tiên hết phải nói là The Brothers Four không phải là tác giả - mà cũng không phải là nhóm ca khúc đầu tiên - biểu diễn bài Greenfields. Tác phẩm bất hủ này thực ra đã được ba ca nhạc sĩ trong ban Easy Riders (Terry Gilkyson - Rich Dehr - Frank Miller) soạn ra và thu âm từ năm 1956. Thế nhưng phiên bản đó hầu như không được ai chú ý, và phải chờ đến đầu năm 1960, sau khi được nhóm The Brothers Four hòa âm phối khí lại và giới thiệu trong đĩa nhạc single thứ hai của họ thì ca khúc này mới bắt đầu hớp hồn người nghe.
Green Fields - The Brothers Fourhttp://www.viet.rfi.fr/sites/viet.filesrfi/dynimagecache/0/101/1491/1114/344/257/sites/images.rfi.fr/files/aef_image/green_fields_the_brothers_fourth.jpg[The Brothers Four - Lời: Lê Hựu Hà]


Đồng xanh là chốn đây
thiên đàng cỏ cây
là nơi bầy thú hoang
đang vui đùa trong nắng say
đây những bờ suối vắng
im phơi mình bên lùm cây
đây những giòng nước mát
khẽ vươn tay về thung lũng
và những đôi nhân tình
đang thả hồn dưới mây chiều

Đồng xanh giờ vắng tênh
dưới trời lãng quên
còn đâu bầy thú hoang
đang vui đùa trong nắng êm
đâu những bờ suối vắng
im phơi mình bên lùm cây
đâu những giòng nước mát
khẽ vươn tay về thung lũng
và những đôi nhân tình xưa
đã lìa cách xa rồi

Ta yêu đồng xanh
như đã yêu thương con người
ta thương đôi tình nhân kia
như gió thương yêu mây trời
nhưng sao giờ đây
chẳng thấy ai chung quanh ta
đất trời như bãi tha ma
trên đồng hoang cỏ cháy

Và giờ ta còn đứng đây
giữa vùng hắt hiu
trời không một chút mây
đã khô cằn như đáy tim
sao ta còn đứng mãi
như người tình mong đợi ai
sao ta còn đứng mãi
để nghe tâm hồn tê tái
và đã bao năm rồi
ta đứng chờ
giữa cánh đồng

***************************************

Greenfields
(The Brothers Four)

Once there were green fields, kissed by the sun.
Once there were valleys, where rivers used to run.
Once there were blue skies, with white clouds high above.
Once they were part of an everlasting love.
We were the lovers who strolled through green fields.

Green fields are gone now, parched by the sun.
Gone from the valleys, where rivers used to run.
Gone with the cold wind, that swept into my heart.
Gone with the lovers, who let their dreams depart.
Where are the green fields, that we used to roam ?

I'll never know what, made you run away.
How can I keep searching when dark clouds hide the day.
I only know there's, nothing here for me.
Nothing in this wide world, left for me to see.

Still I'll keep on waiting, until you return.
I'll keep on waiting, until the day you learn.
You can't be happy, while your heart's on the roam,
You can't be happy until you bring it home.
Home to the green fields, and me once again.

Thứ Bảy, 9 tháng 11, 2019

10 triết lý về cuộc sống đơn giản, đáng suy ngẫm

Kết quả hình ảnh cho triết lý về cuộc sống
Những đạo lí đơn giản mà vô cùng thiết thực dưới đây sẽ giúp bạn có những suy nghĩ đúng đắn về cuộc sống và trở nên tốt đẹp hơn

Có câu: Cổ nhân chỉ cứu người nghèo, không cứu kẻ lười. Dưới đây là những đạo lý đơn giản, thiết thực, hữu ích với tất cả mọi người.

1. Cho vay gạo chứ không cho vay củi, cho mượn áo chứ không cho mượn giày
Vay gạo là vì 'có thực mới vực được đạo', còn cho người nghèo đói vay gạo cũng là đang tích đức cho chính mình, vì vậy hầu hết mọi người sẽ không từ chối.

Nhưng củi thì có ở khắp mọi nơi, chỉ cần sẵn sàng làm việc chăm chỉ, không sợ thiếu củi lấy.
Cổ nhân cứu người nghèo, không cứu người lười.

Không mượn giày và cũng không cho mượn giày vì mỗi người có kích cỡ bàn chân khác nhau, rất khó để tìm được một đôi giày vừa vặn. Đường đời cũng vậy, không ai giống ai, quan trọng là phải dùng cái tôi và ý chí của mình tìm cho mình con đường thích hợp nhất.

2. Không làm người trung gian, không làm người bảo lãnh thì cả đời không phiền não

Không làm người trung gian, không làm người bảo lãnh thì cả đời không có phiền não quấn thân.

Làm người trung gian thì nhất định 2 bên đều quen biết, đều là bạn bè.

Khi không xảy ra sự việc thì còn tốt, khi xảy ra sự việc, 2 bên không tốt nữa thì họ đều đổ tội lên thân mình.

Cuối cùng, sự tình cũng hỏng mà bạn bè cũng mất.

3. Gạo củi vợ chồng, rượu thịt bạn bè, hộp quà thân thích

Giữa vợ chồng với nhau thì là cơm áo gạo tiền, bạn bè với nhau là tụ tập ăn uống, họ hàng với nhau không thể thiếu được quà nọ quà kia.

Càng thân thì càng thật, càng thực tế.

4. Nhân từ không nắm binh quyền, nghĩa khí không nắm tiền tài

Người nhân từ mềm lòng không thể dẫn dắt quân đội. Người nghĩa khí không thể nắm giữ quản lý tiền của tài sản.

Chiến trường liên quan đến sống chết, thời khắc then chốt không thể có cái nhân từ mềm yếu của phụ nữ, nếu không sẽ thua thảm hại, mất đi sinh mệnh của bao nhiêu người.

Người trung nghĩa trên đời thường nhiều bằng hữu, họ là người trọng nghĩa khinh tài, do đó người nghĩa khí không được nắm giữ tiền của tài sản, vì sẽ không giữ được.

5. Nghèo giữa chợ đông không ai hỏi, giàu chốn rừng sâu lắm kẻ thăm

Khi nghèo khổ không người thăm hỏi, lúc giàu sang thì khách khứa đầy nhà. Tình người ấm lạnh, tham phú phụ bần.

Suy cho cùng vẫn chỉ là một chữ "lợi". Sống trên đời, ngoại trừ những người thân yêu nhất ra, thì ai đến với nhau cũng chỉ vì cái lợi.

Đây là chân lý tự cổ chí kim.

6. Trưởng thành không tự tại, tự tại thì chưa phải là trưởng thành

Những người muốn làm nên việc lớn thường không được tự do tự tại, không được tùy tiện, thích thế nào là thế đó.

Ngày nào cũng phiêu diêu tự tại, thông thường sẽ chẳng làm được việc gì to tát.

Nếu bạn muốn làm điều gì đó lớn lao, bạn phải chịu đựng những người mà bình thường không thể chịu đựng được.

7. Ăn cơm người vác tù và hộ người

Ăn cơm của người ta, bạn phải nhìn sắc mặt người ta mà sống. Bưng bát của người ta, bạn sẽ phải chịu sự kiểm soát của họ.

Nếu cứ dựa vào người khác mà sống, bạn phải tuân theo những ràng buộc họ. Bởi lẽ dĩ nhiên là quyền kinh tế quyết định quyền phát ngôn.

Nếu không muốn bị kiểm soát, bạn phải tự lực cánh sinh, tự cung tự cấp.

Những người trẻ không muốn nghe lời cha mẹ, nhưng chẳng phải vẫn phải phụ thuộc vào cha mẹ về mặt kinh tế hay sao.

8. Đánh người không đánh vào mặt, mắng người không vạch khuyết điểm

Dù có mâu thuẫn với người khác, cũng đừng chọc vào nỗi đau của họ.

Bạn nhất thời sảng khoái, người khác tổn thương cả đời. Kiểm soát cảm xúc của mình, giữ hòa khí, có vậy tiền tài mới tìm đến.

9. Đại phú do mệnh, tiểu phú do cần

Một người có thể trở thành đại phú đại quý hay không là do Thượng Thiên chú định.

Một người có thể khá giả hay không là dựa vào nỗ lực cá nhân, cần kiệm mà thành.

Trong mệnh có cái đó thì cuối cùng cũng sẽ có, trong mệnh không có cái đó thì chớ cưỡng cầu.

Sống thiết thực, thanh bạch, cứ làm tốt việc của mình là đủ rồi. Cái gì đáng có sẽ có, cái gì nên đến sẽ đến.

10. Con cái tự có phúc của con cái, đừng làm trâu làm ngựa cho chúng

Rất nhiều cha mẹ liều mạng làm việc để tiết kiệm rồi lo lắng đủ đường cho con cái, lo con không biết nấu ăn, không có công việc tốt, không có đối tượng tốt.

Trên thực tế, con cái có phúc của riêng chúng, và chúng cần có trách nhiệm với cuộc sống của chính mình.

Hãy nhớ rằng, cha mẹ là người hướng dẫn, người định hướng cho con cái chứ không phải là trâu là ngựa cho chúng cưỡi.

Thứ Hai, 4 tháng 11, 2019

Từ bí mật của Nhật Bản 150 năm trước đến thứ 'vũ khí sắc bén' sẽ giúp Việt Nam thành dân tộc dẫn dắt

"Học tập chăm chỉ là lẽ đương nhiên của con người, chứ đâu đến mức phải khen ngợi. Bởi lẽ, lý do sinh tồn của con người chắc chắn ở tầm cao hơn nhiều" - Fukuzawa Yukichi.


Bí mật thứ tư
THỰC HỌC
Chủ tịch Trung Nguyên Legend Đặng Lê Nguyên Vũ nói: "Một dân tộc vĩ đại là dân tộc biết tôn thờ và thượng tôn tri thức". Vì lẽ đó, Đặng Lê Nguyên Vũ đã khởi xướng Hành trình Từ Trái Tim trao tặng tủ sách nền tảng đổi đời cho 30 triệu thanh niên Việt Nam trong suốt 10 năm qua và hành trình sẽ tiếp tục tiến rất xa về tương lai, để thực hiện khát vọng vĩ đại: đưa Việt Nam trở thành "dân tộc dẫn dắt".
Muốn vậy, không chỉ cần có ý chí vĩ đại mà cần có phương pháp đúng.
Cổ nhân có câu: "Không có phương pháp thì người tài cũng lỗi, có phương pháp thì người bình thường cũng làm được việc phi thường".
Và chính Hành trình Từ Trái Tim đang mang đến một phương pháp cực kỳ thiết thực, và đó sẽ là "vũ khí sắc bén" cho người Việt trẻ: tri-thức-thực-học (chúng tôi nhấn mạnh, để phân biệt với tri thức kiểu tầm-chương-trích-cú, học-để-thi) với 100 đầu sách trong đó có 5 cuốn nền tảng đổi đời (Khuyến học, Nghĩ giàu làm giàu, Đắc nhân tâm, Quốc gia khởi nghiệp, Không bao giờ là thất bại - Tất cả là thử thách) và 95 cuốn khác là kiến thức thuộc 12 lĩnh vực giúp cho thực nghiệp như triết học, kinh tế học, tâm lý học...
GS Võ Tòng Xuân khi trả lời chúng tôi, cũng nhấn mạnh rằng, tri thức (thực học - pv) là nền tảng quan trọng quyết định đất nước đó đứng ở tầm cao nào trên thế giới. Tuy nhiên, thanh niên ta hiện nay lại "chỉ biết học cho đủ để đi thi, sau khi thi thì hầu như quên hết. Vì đầu óc không chứa khoa học công nghệ cho nên chúng ta không nghĩ ra ý tưởng, đề tài hữu ích, nên có rất nhiều thời gian rảnh để tụ tập bạn bè, ăn nhậu và để cho thời gian trôi qua uổng phí với lối sống hưởng thụ".
Từ bí mật của Nhật Bản 150 năm trước đến thứ vũ khí sắc bén sẽ giúp Việt Nam thành dân tộc dẫn dắt - Ảnh 2.
GS Võ Tòng Xuân khẳng định ở Việt Nam, rất nhiều người chưa chú trọng vào thực học.
Theo GS Võ Tòng Xuân, sự thiếu hụt kiến thức thực học này một phần lớn là vì nền giáo dục "học-cho-các-kỳ-thi" chứ không phải học để chuẩn bị thành những nhà sáng chế. Người Việt vốn rất thông minh, không thua kém ai hết, xin học bổng qua Singapore đều rất thành công, qua Mỹ học cũng giỏi hơn người ta. Nhưng với môi trường giáo dục không khai phóng, bị ràng buộc bởi quá nhiều quy chế, trong khi nội dung kiến thức và kỹ năng chuyên nghiệp lại quá hời hợt, chậm thay đổi như hiện nay thì khả năng ấy khó có thể phát huy.
Trước đó nữa, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cũng nói rằng: "12 năm học phổ thông cộng thêm 4-5 năm đại học cũng chưa chắc giúp được mọi người sau khi ra trường đáp ứng được nhu cầu công việc. Mặt khác, xã hội vẫn còn rất nhiều vấn đề về đạo đức, kể cả trong số những người học hành tử tế".
Và thật thú vị là cách đây gần 150 năm, nhà tư tưởng vĩ đại của nước Nhật, Fukuzawa Yukichi đã nói rất kỹ đến vấn đề THỰC HỌC trong cuốn sách để đời của ông: Khuyến học.
Thời đó, rất nhiều người Nhật có tư tưởng học để làm quan, học theo kiểu tầm chương trích cú rồi đi ẩn dật lánh đời hoặc kiếm một công việc làng nhàng sống qua ngày, không chú trọng thực học và xã hội đầy rẫy thói hư, tật xấu, kể cả trong giới tri thức, nhiều chữ nghĩa.
Hơn một nửa nội dung cuốn Khuyến học, Fukuzawa Yukichi tập trung nói rất nhiều về mục đích, ý nghĩa của thực học và kêu gọi người dân nhìn nhận sâu xa vào bản chất của học vấn.
Và như vậy, có thể thấy những tư tưởng vượt thời đại của ông đến nay vẫn còn vẹn nguyên giá trị, là những điều mà những nhà tri thức có sức ảnh hưởng lớn tại Việt Nam hiện nay như GS Võ Tòng Xuân, bà Phạm Chi Lan... sau gần 150 vẫn còn nhắc lại, còn Đặng Lê Nguyên Vũ đã hiện thực hóa tư tưởng minh triết đó bằng Hành trình Từ Trái Tim!
Ở những bài trước, chúng ta đã nói đến 3 điều cần có đầu tiên trong kho BÍ MẬT CỦA NỀN DÂN KHÍ NHẬT BẢN - thứ đã giúp đất nước này vươn mình trở nên hùng cường như ngày nay, đó là: độc lập trong tinh thần, tầm nhìn xa trông rộng (đọc chi tiết) và tinh thần cầu học để cống hiến cho nước (đọc chi tiết). Và ở bài này, chúng ta sẽ tiếp tục bàn đến bí mật thứ tư được Fukuzawa Yukichi nhắc đến: SỰ THỰC HỌC.
Muốn cống hiến, cách chuẩn bị tốt nhất là phải chú trọng vào thực học
Fukuzawa Yukichi phân tích, để trở thành người dẫn đường chỉ lối, đưa tinh thần của mọi người trong xã hội lên tầm cao hơn, để dạy cho mọi người những điều hay trong học vấn thì hơn hết thảy mọi việc khác là con người phải cố gắng phấn đấu trong sự nghiệp học tập. Bởi theo Yukichi, sự cống hiến quý giá nhất góp vào nền văn minh là tri thức, là sự vận dụng kiến thức vào công cuộc phát triển xã hội toàn diện cả về tinh thần lẫn vật chất. Nói cách khác, con người sau khi đã có đời sống độc lập toàn diện, muốn hướng tới sự cống hiến cho xã hội thì phải có tri thức thông qua thực học.
Trong Khuyến học, hơn 1 lần, Yukichi bàn đến câu hỏi, học vấn là gì? Có nhiều học giả cho rằng, học vấn là điều gì rất cao xa, thâm thúy. Yukichi quan niệm rất đơn giản, học vấn là việc tiếp thu tri thức có ích trực tiếp cho cuộc sống. Bất kể sự học nào không gắn với thực tế đều có nguy cơ dẫn đến cảnh tán gia bại sản.
Chẳng hạn, theo ông, học Toán để biết cách cân, đong, đo, đếm, học Vật lý giúp phân biệt tính chất mọi vật trong tự nhiên, qua đó tìm ra tác dụng của nó, học Sử để nghiên cứu quá khứ và hiện tại của các quốc gia, học Kinh tế để giải đáp mọi câu hỏi liên quan đến vấn đề chi tiêu trong gia đình cũng như nền tài chính quốc gia, học Địa lý để biết phong thổ của đất nước và các quốc gia khác, học Đạo đức để hiểu về hành vi của bản thân, biết cách ứng xử, giao tiếp và sinh hoạt giữa mọi người.
Từ bí mật của Nhật Bản 150 năm trước đến thứ vũ khí sắc bén sẽ giúp Việt Nam thành dân tộc dẫn dắt - Ảnh 4.
Quan điểm về thực học mà Yukichi đề cập trong Khuyến học cũng là điều mà nguyên Bộ trưởng Thông tin & Truyền thông TS Lê Doãn Hợp rất đồng tình. Trong lần trả lời phỏng vấn của chúng tôi, ông cũng từng khẳng định, trí thông minh, kiến thức phải áp dụng vào cuộc sống mới là điều có giá trị.
Trong khi bàn về mục đích của học vấn, Yukichi cho rằng, kiếm kế sinh nhai cũng là học vấn, lập sổ sách thu chi trong buôn bán cũng là học vấn, nắm bắt thời cơ là học vấn... Sự học tuy rộng nhưng giản dị. Người học Tài chính, học Kế toán... nhưng lại không biết cách hạch toán sổ sách, không biết quản lý tài chính của chính mình và gia đình thì sự học đó dù có thế nào cũng chỉ là vô dụng.
Là một nhà giáo dục khai phóng, Yukichi đề cao tính tinh giản, chú trọng vào thực chất và tính ứng dụng. Ông cho rằng, đúng là sự học muốn thành công phải lắng nghe ý kiến người xung quanh, phải đào sâu suy nghĩ, phải đọc nhiều. Nhưng sự học không nên quá cồng kềnh theo kiểu bụng nhét bồ chữ, học thuộc luận ngữ nhưng lại không thể luận ngữ (biết ăn nói, hiểu lời lẽ, ngôn từ).
Lấy dẫn chứng, Yukichi kể chuyện rằng xưa có chàng thư sinh lặn lội lên tận Edo cả mấy năm trời, quyết chí theo học thuyết Chu Tử. Anh ta nỗ lực, miệt mài ngày đêm sao chép kinh sách. Số lượng sách vở sao chép lên tới hàng trăm cuốn. Tự nhủ học thế là thành tài rồi, chàng thư sinh bèn trở về quê. Anh ta về theo đường bộ. Sách vở gởi hết xuống tàu thủy. Chẳng may, con tàu chở hàng gặp nạn chìm ngoài khơi tỉnh Shizouka.
Vì chỉ có sao chép chữ vào vở nên bản thân anh ta thì về tới quê, còn chữ thì theo tàu chìm xuống sông xuống biển. Thế là bao nhiêu chữ thầy trả lại thầy. Công lao học hành thành công cốc.
Nhiều học sinh Việt Nam thời nay cũng như vậy. Sự học gói gọn hết trong những cuốn sách và các kỳ thi, cho nên rời xa trường học là chứ thầy trả thầy, thậm chí, nếu thu hết sách giáo khoa, vở chép thì có lẽ học vấn cũng đánh rơi trên sông biển như anh chàng thư sinh nọ.
Bàn về học vấn, Yukichi kịch liệt lên án việc học theo kiểu tầm chương trích cú, học hành chỉ bám theo sách vở và không hề có ý nghĩa thực tiễn. Ông chỉ ra: "Những người ấy chỉ là “cái tủ kiến thức” suông. Đối với chính miếng cơm của bản thân, đối với lợi ích của đất nước, đối với nền kinh tế của quốc gia, họ hoàn toàn vô dụng, họ chỉ là hạng người “dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm”.
Từ bí mật của Nhật Bản 150 năm trước đến thứ vũ khí sắc bén sẽ giúp Việt Nam thành dân tộc dẫn dắt - Ảnh 7.
Đây là lời khẳng định của GS Võ Tòng Xuân - người đánh giá rất cao tinh thần thực học của Nhật Bản.
Sự thể hiện của nền chính trị phụ thuộc vào thực học của người dân
Không có học vấn, con người ngay cả cái thiện, cái ác không phân biệt nổi, chỉ biết chạy theo dục vọng, làm những việc xấu xa, đồi bại để thỏa mãn cá nhân mình.
Yukichi nhận định, với người ngu dốt, vô học, dù có đem đạo lý ra giảng giải cũng vô ích, chỉ còn cách buộc phải làm là dùng sức mạnh để răn đe. Và nếu xã hội chỉ toàn những con người như vậy thì sẽ sinh ra các chính phủ chuyên chế, độc tài. Có thể nói, nền chính trị hà khắc không chỉ là tội do một bạo chúa hay những kẻ nắm quyền lực gây ra, mà còn là lỗi ở chính người dân, do vô học nên mới dẫn tới thảm họa cho chính mình.
Fukuzawa nhận định: "Dân ngu thì tự chuốc lấy bạo tàn".
Từ bí mật của Nhật Bản 150 năm trước đến thứ vũ khí sắc bén sẽ giúp Việt Nam thành dân tộc dẫn dắt - Ảnh 9.
Trường tiểu học tại Thành phố Kudoyama thời Minh trị.
"Đâm thuê chém mướn, giết người cướp của, kéo bè kéo cánh tụ họp nổi loạn, chà đạp lên mọi pháp luật…, không một vụ việc nào trong số những hiện tượng trên đây lại được coi là hành động của con người cả. Vậy mà chúng đang là hình ảnh hiện thời của xã hội Minh Trị chúng ta. Trong xã hội toàn là "giặc dân" như thế này dẫu có với tới Đức Phật hay Khổng Tử thì hai ngài có lẽ cũng đành phải bó tay. Để cai trị chắc phải dùng tới chế độ chính trị tàn bạo chuyên chế. Nhưng tôi tin rằng không người dân nào lại muốn được cai trị bằng chế độ chính trị hà khắc cả", Yukichi viết.
Cho nên để thoát khỏi nền chính trị bạo tàn, để xây dựng một xã hội bác ái, văn minh, mỗi người dân phải có trách nhiệm mài dũa tài năng và nhân cách, phải có thực lực để đứng vững trên địa vị và tư cách bình đẳng, để đấu tranh với những sai trái của chính quyền.
Đây cũng chính là mục đích sâu xa của học vấn trên con đường xây dựng đất nước hùng cường.
Từ bí mật của Nhật Bản 150 năm trước đến thứ vũ khí sắc bén sẽ giúp Việt Nam thành dân tộc dẫn dắt - Ảnh 10.
Tích lũy tri thức, bổ sung thực học qua sách cũng là cách mà chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan từng khuyên người trẻ nhằm tránh được những cám dỗ bên ngoài, tham sân si từ bên trong - 2 nguyên nhân chính dẫn đến những thói hư tật xấu và tội ác trong xã hội.
Con đường dẫn tới thực học và khái niệm mới về sự vô học
Theo Yukichi, bản chất thực sự của học vấn là phải động não suy nghĩ, chứ không phải chỉ là đọc sách một cách đơn thuần. Thực học chú trọng vào khả năng ứng dụng. Có học vấn mà không ứng dụng được vào cuộc sống thực tế thì chẳng khác gì vô học.
Muốn sự học được ứng dụng thì phải quan sát, suy đoán đạo lý của sự vật. Phải đưa ra chính kiến, cách nghĩ cách làm của bản thân mình. Ngoài ra đương nhiên là còn phải đọc sách, viết sách, nói lên ý kiến của mình để tranh luận. Biết vận dụng tổng hợp các biện pháp như vậy thì mới được gọi là nghiên cứu học vấn.
"Quan sát sự vật, suy luận, đọc sách là cách để tích lũy tri thức.
Bàn bạc, tranh luận là cách để trao đổi tri thức.
Viết, diễn thuyết là cách để mở rộng tri thức". Đây là 3 con đường dẫn tới tri thức mà Yukichi đề cập trong cuốn Khuyến học.
Bên cạnh đó, ông cũng cho rằng, con đường của học vấn được nối dài bằng hành động. Yukichi tin rằng, tri thức con người hơn nhau không ở chỗ phong phú, nghe nhiều biết rộng mà là sự ứng dụng thành công kiến thức học được vào việc giải quyết các vấn đề trong cuộc sống của mình, biến kiến thức chung thành tri thức của riêng mình.
"Tiếng là nhà nghiên cứu và giảng dạy môn đạo đức học, nhưng lại không giữ nổi phẩm hạnh của bản thân. Mâu thuẫn giữa lý luận và cuộc sống thực tế ở họ giống như có hai người khác nhau trong một con người vậy. Tôi không thể nào coi họ là những người có kiến thức", Yukichi viết. "Kiến thức, phẩm hạnh của con người không thể trở nên thanh cao nếu chỉ có nói toàn lý luận cao xa, hoặc chỉ có nghe nhiều, biết rộng, mà không có hành động gì cả".
Để có thực học, con người còn phải gạt bỏ thái độ tự mãn. Ví dụ, có một sinh viên chăm chỉ, miệt mài học hành. Anh ta không rượu chè, không chơi bời bê tha. Anh ta tự giác học tập và tỏ ra rất hãnh diện. "Nhưng sự tự đắc đó chẳng qua chỉ là so sánh với những sinh viên lười nhác thôi. Học tập chăm chỉ là lẽ đương nhiên của con người, chứ đâu đến mức phải khen ngợi. Bởi lẽ, lý do sinh tồn của con người chắc chắn ở tầm cao hơn nhiều".
Con người luôn luôn nhắm tới hình mẫu của những người thành đạt hàng đầu. Cứ nhìn thấy sở trường của người khác hơn bản thân là bứt rứt. Thế hệ sau bao giờ cũng muốn học tập vượt hẳn thế hệ trước. Cho nên sự học vốn mênh mông như biển, người học sinh, sinh viên phải nhận thấy không bao giờ được "tốt nghiệp" và phải học suốt đời. Có như thế, con người mới không bị tụt hậu.
Từ bí mật của Nhật Bản 150 năm trước đến thứ vũ khí sắc bén sẽ giúp Việt Nam thành dân tộc dẫn dắt - Ảnh 13.
Đại học Keio, Nhật Bản được thành lập từ thế kỷ 19 vào năm 1858 do Fukuzawa Yukichi là người sáng lập. Đến nay, đây vẫn là 1 trong 10 ngôi trường ĐH uy tín nhất xứ Phù Tang.
Tiêu chuẩn để đánh giá trường học
Từ cách đây 150 năm, Yukichi đã hướng tới nền giáo dục khai phóng. Đối tượng để ông so sánh với nền giáo dục trong nước là các trường hàng đầu trên thế giới, luôn nhìn vào đó để thấy cái hay, cái dở của mình, của họ.
Ông quan niệm, vấn đề giáo dục cũng giống như tình trạng của một quốc gia. Giả dụ, thành viên chính phủ toàn là những người có đầu óc sáng suốt. Họ ngày đêm suy nghĩ về nỗi đau khổ và niềm hạnh phúc của dân chúng. Họ luôn đưa ra các chính sách kịp thời. Việc nào đáng khen thì khen ngay, việc nào cần phạt thì phạt ngay. Chính phủ thực thi một nền chính trị sáng suốt và đáng khâm phục. Dân chúng no ấm, xã hội ổn định, đất nước thanh bình.
Đạt được thành quả trên, đáng tự hào lắm chứ! Tuy vậy, mọi vấn đề như đường lối của chính phủ, cuộc sống của người dân, xã hội ổn định và thanh bình… tất cả mới chỉ là nội tình quốc gia. Và đường lối chính trị đang thực thi cũng chỉ là đường lối chính trị do một hay một nhóm các chính trị gia của quốc gia đó hoạch định. Cho dù đó là nền chính trị vì dân thật đáng tự hào, là nền chính trị hơn hẳn so với quá khứ, hơn hẳn so với nền chính trị độc tài ở một số quốc gia khác, nhưng nó vẫn hoàn toàn không có triển vọng trong tương lai.
Nếu có tầm nhìn tổng thể trên bình diện quốc tế, có sự so sánh đối chiếu với các quốc gia văn minh khác, nếu suy tính đến lợi ích cũng như thiệt hại giữa hai quốc gia trong tương lai, thì nền chính trị trên đây có đáng để tự hào hay không vẫn chưa thể khẳng định được.
Từ bí mật của Nhật Bản 150 năm trước đến thứ vũ khí sắc bén sẽ giúp Việt Nam thành dân tộc dẫn dắt - Ảnh 15.
Hình ảnh nhà máy dệt ở Nhật thời Minh trị.
Cho nên thước đo của sự học, tiêu chuẩn của trường học phải nhìn rộng ra trên tổng thể thế giới. Nếu sự học tuy là thực học nhưng vẫn chỉ loanh quanh trong nước, không đáp ứng được nhu cầu thời đại mới của thế giới thì sự học ấy vẫn không có nhiều ý nghĩa trong việc củng cố độc lập, nâng tầm quốc gia.
Các trường học gọi là tốt ở trong nước nhưng không cập nhật được kiến thức liên quan đến bình diện quốc tế, còn quá yếu kém so với các trường tốt nhất trên thế giới thì nền giáo dục quốc gia đó hẳn vẫn còn nhiều thứ phải cải tổ.
Nhìn ra thế giới, tiếp thu tinh hoa nhân loại chính là quan điểm chủ đạo của Yukichi trong cuốn Khuyến học. Tuy nhiên, làm thế nào để gạn lọc được tinh hoa, tìm được cái hay để học trong bối cảnh văn hóa, văn minh các nước Đông - Tây đổ xô hỗn tạp vào đất nước. Điều này sẽ được chúng tôi lý giải trong bài viết tiếp theo liên quan đến tinh thần dung hòa.
Từ bí mật của Nhật Bản 150 năm trước đến thứ vũ khí sắc bén sẽ giúp Việt Nam thành dân tộc dẫn dắt - Ảnh 16.
Tinh thần luôn nhìn ra thế giới của Fukuzawa Yukichi chính là động lực để Nhật Bản có thể trở thành đất nước hùng cường như ngày hôm nay - hình ảnh về Thủ đô Tokyo.