Thứ Bảy, 2 tháng 2, 2019

MÙA XUÂN TRONG THƠ ĐƯỜNG - VIỆT


     Trung Hoa là xứ sở với thời tiết có đủ bốn mùa trong năm: xuân, hạ, thu, đông. Có lẽ mùa xuân được nhắc nhở nhiều trong thơ văn của họ, mặc dầu người Trung Hoa có những thú hưởng thụ trong bốn mùa:
     Xuân du phương thảo địa
     Hạ thưởng lục hà trì
     Thu ẩm hoàng hoa tửu
     Đông ngâm bạch tuyết thi
     (Xuân chơi miền cỏ thơm
     Hạ thưởng hồ sen biếc
     Thu nhắm rượu cúc vàng
     Đông ngâm thơ tuyết bạc)
     Nhưng hồn xuân vẫn bộc lộ trong những thú hưởng lạc ấy của con người. Mùa xuân là mùa hồi sinh của vạn vật. Cây trổ lộc đơm hoa, đồng cỏ khô héo trong mùa đông trở nên xanh tốt. Người Trung Hoa thường có hội “đạp thanh” (dẫm trên cỏ xanh) hàng năm, vào tiết thanh minh:
     Thanh minh trong tiết tháng ba
     Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh (Kiều)
     Cỏ xanh tốt trên những cánh đồng bao la biểu hiện sức sống mãnh liệt, sự trường tồn, vươn lên, bất khuất của muôn loài trong thiên nhiên.
     Cỏ non xanh tận chân trời
     Cành lê trắng điểm một vài bông hoa (Kiều)
     Màu xanh của cỏ, màu trắng của hoa lê, hai màu hòa hợp làm nổi bật sắc thái tươi đẹp của mùa xuân. Cỏ là loài cây có tính sinh tồn mạnh mẽ, vượt qua mọi hoàn cảnh sinh tử:
     Ly ly nguyên thượng thảo
     Nhất tuế nhất khô vinh
     Dã hỏa thiêu bất tận
     Xuân phong xuy hựu sinh
     (Bạch Cư Dị)
     (Cỏ trên đồng bát ngát
     Hàng năm lượt khô xanh
     Lửa thiêu không cháy sạch
     Gió xuân về nẩy sinh)
     Cỏ xanh tươi, mượt mà trong mùa xuân lại là nguồn cảm hứng cho thi nhân:
     Viễn phương xâm cổ đạo
     Tình thúy tiếp hoang thành
     Hựu tống vương tôn khứ
     Thê thê mãn biệt tình
     (Thảo – Bạch Cư Dị)
     Xa dài thơm ngát lối
     Tạnh mưa biếc gợn thành
     Vương tôn lại tiễn bước
     Lai láng nỗi ly tình
     (Cỏ – Bạch Cư Dị)
     Cỏ là cái nền mà hoa là những nét chấm phá của bức tranh xuân. Xuân đến, muôn hoa nở rộ. Người ta dạo chơi miền cỏ thơm, uống rượu xem hoa, như Lưu Vũ Tích trong bài “Ẩm tửu khán mẫu đơn” (Uống rượu xem hoa mẫu đơn):
     Kim nhật hoa tiền ẩm
     Cam tâm túy sổ bôi
     Đãn sầu hoa hữu ngữ
     Bất vị lão nhân khai
     (Hôm nay bên hoa uống
     Say sưa vài chén qua
     Chỉ buồn hoa biết nói
     Nở đâu vì tuổi già)
     Hoặc người ta thưởng ngoạn hoa mai. Mai là một trong bốn loại cây quí (tứ hữu): mai, lan, cúc, trúc. Mai thường nở hoa đầu xuân, ở Việt Nam, vào dịp Tết nguyên đán, cùng lượt với hoa đào.
     Ở Trung Hoa, người ta thường có cái thú “ đạp tuyết tầm mai” (dẫm tuyết tìm mai), nghĩa là dạo chơi trong mùa tuyết để ngắm hoa mai nở đẹp trong mùa xuân.
     Hoa mai và quả mai (mơ) thường tượng trưng cho mùa xuân và tuổi trẻ, cũng như hoa đào và quả đào (mận) vậy:
     Quả mai ba bảy đương vừa
     Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì (Kiều)
     - Đào hồng hựu kiến nhất niên xuân (Đường Thi)
     (Đào (nở) hồng lại thấy một mùa xuân)
     Những bậc danh sĩ một khi lánh đời, tìm nơi ẩn dật ở chốn lâm tuyền thường lấy cỏ cây, chim muông làm bạn, cũng là một cách hưởng thụ xuân đời, như Nguyễn Du khi hết vướng bận với quan trường:
     Nghêu ngao vui thú yên hà
     Mai là bạn cũ hạc là người quen
     Hoa đào nở vào mùa xuân còn được xem như là biểu tượng của tình yêu. Thôi Hộ, một thi nhân đời Đường, tình cờ đi ngang qua cửa một vườn nhà, say sưa ngắm giai nhân đứng bên gốc đào. Năm sau trở lại không thấy người đẹp. Ông buồn lòng ghi lại cảm xúc trong bài thơ:
     Khứ niên kim nhật thử môn trung
     Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
     Nhân diện bất tri hà xứ khứ
     Đào hoa y cựu tiếu đông phong
     Ngày này năm ngoái bên hiên
     Má hồng soi ánh hồng bên hoa đào
     Má hồng nay vắng tăm hao
     Hoa đào năm ngoái cười chào gió xuân
     Thiên huyền thoại về hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu đi chơi núi Thiên Thai, men theo rừng đào tình cờ gặp các tiên nữ rồi sống với họ trong một thời gian. Sau nhớ quê trở về thì cõi trần đã trải qua hàng trăm năm. Lưu Nguyễn tìm đường trở lại Thiên Thai, mong nối lại cuộc sống cũ thì động tiên không còn nữa. Hoa đào hiện diện trong thơ Tào Đường, mô tả cuộc gặp gỡ kỳ thú của hai chàng Lưu Nguyễn:
     Bất tri thử địa qui hà xứ
     Tu tựu Đào nguyên vấn chủ nhân
     (Đây thuộc về đâu ai ấy chủ
     Nguồn Đào muốn đến hỏi thăm nhau)
     Ngọc sa dao thảo duyên khê bích
     Lưu thủy đào hoa mãn giản hương
     (Cát nâng bờ cỏ ven khe biếc
     Nước cuộn hoa đào ngát suối trôi)
     Đào hoa lưu thủy y nhiên tại
     Bất kiến đương thời khuyến tửu nhân
     (Hoa đào nước chảy còn trơ đó
     Đâu bóng người xưa chuốc chén say

     Mùa xuân hồi phục thiên nhiên, làm tươi trẻ cuộc đời, tạo dịp vui sống cho con người. Nhà thơ Lý Bạch cùng bạn hữu nhóm họp, mở tiệc trong vườn đào lý:
     “Huống dương xuân triệu ngã dĩ yên cảnh, đại khối tá ngã dĩ văn chương, hội đào lý chi phương viên tự thiên luân chi lạc sự...” (Huống chi ngày xuân hiến ta cảnh đẹp, đất trời cho mượn nguồn văn, họp mặt vườn thơmđào mận, niềm vui từ nơi đạo lớn...)
     Nhóm thi nhân nầy quan niệm cuộc đời chỉ là hư ảo và họ chỉ muốn tận hưởng niềm vui xuân như người xưa, đốt đuốc chơi đêm, vầy tiệc, uống rượu, làm thơ.
     “Nhi phù sinh nhược mộng vi hoan kỷ hà ? Cổ nhân bỉnh chúc dạ du lương hữu dĩ dã... Khai quỳnh diên dĩ tọa hoa, phi vũ trường nhi tuế nguyệt. Như thi bất thành, phạt y kim cốc tửu số.” (Mà kiếp phù sinh như mộng, vui được bao nhiêu? Người xưa đốt đuốc chơi đêm, quả điều hay vậy... Mở tiệc quỳnh ngồi ở bên hoa, tung chén cánh say lả dưới trăng. Thơ làm chẳng xong, phạt đúng số rượu ở vườn Kim.)
     Mùa xuân quá quyến rủ con người với nắng ấm, với trăng thanh gió mát. Cho nên vào dịp nầy, Lý Bạch không những vầy bạn cùng uống rượu để tìm hứng cảm cho thơ, giải buồn muôn thuở:
     Hội tu nhất ẩm tam bách bôi...
     Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu
     (Ba trăm chung đánh ngã một hơi...
     Uống cho vạn cổ sầu vơi)
     Mà khi thấy trăng đẹp chiếu trên đá, ông cao hứng tự chuốc rượu cho mình:
     Đối thử thạch thượng nguyệt
     Trường túy ca phương phi
     (Đối bóng trăng trên đá
     Say hát khúc phương phi)
     Ông uống say mèm, đến khi tỉnh giấc chẳng biết hôm ấy là ngày nào, chỉ nghe tiếng chim hót trong hoa, gió xuân thoang thoảng:
     Giác lai phán đình tiền
     Nhất điểu hoa gian minh
     Tá vấn thử hà nhật
     Xuân phong ngữ lưu oanh
     (Tỉnh dậy trông sân trước
     Tiếng chim hót trong hoa
     Hôm nay ngày nào nhỉ
     Gió xuân thoảng oanh ca)
     Cảnh xuân nhiều vẻ, trong thơ cũng không ít màu sắc, hình ảnh, ý tưởng được phô diễn đa dạng. Lý Bạch vui xuân với tâm hồn phóng khoáng, đầy tính chất hưởng lạc, bởi vì ông xem cuộc đời như một giấc mộng lớn:
     Xử thế nhược đại mộng
     Hồ vi lao kỳ sinh
     (Đời như giấc mộng lớn
     Sống lao đao làm gì ?)
     Khác với Lý Bạch, Đỗ Phủ một đời lận đận trên đường bôn ba, thời loạn cũng như thời bình, xa gia đình xứ sở, ông nhìn xuân với nhãn quan của một người ưu thời mẫn thế:
     Quốc phá sơn hà tại
     Thành xuân thảo mộc thâm
     Cảm thời hoa tiền lệ
     Hận biệt điểu kinh tâm
     Phong hỏa liên tam nguyệt
     Gia thư để vạn câm (kim)
     Bạch đầu tao cánh đoản
     Hồn dục bất thăng trâm
     (Xuân vọng)
     (Nước mất còn sông núi
     Thành xuân cây cỏ cao
     Cảm đời hoa rơi lệ
     Hận biệt lòng chim đau
     Khói lửa liền ba tháng
     Thư nhà đắt giá sao
     Bạc đầu tóc ngắn gãi
     Không dễ búi cài đâu
     (Trông Cảnh Xuân)
     Cái tinh thần “tiên ưu thiên hạ chi ưu” (lo trước cái lo của thiên hạ) này, vẫn từng có ở danh tướng Trần Quang Khải (đời Trần) dù đến tuổi già vẫn tưởng nghĩ đến ơn vua nợ nước, nói lên lòng cảm khái trong buổi ngày xuân:
     Cố quốc tâm hoàn phi điểu quyện
     Ân ba hải khoát túng lân trì
     Sinh bình đởm khí luân huân tại
     Giải đảo đông phong nhất phú thi...
     Khư sầu lại hữu tam bôi tửu
     Phủ kiếm du du ức cố sơn
     (Xuân Nhật Hữu Cảm)
     (Nước cũ hồn mơ chim mỏi cánh
     Ơn xưa bể thẳm cá chùng vây
     Bình sinh chí khí giờ chưa nhụ u
     Quật gió xuân xoay xướng vận hay...
     Tiêu sầu những cậy ba chung rượu
     Gõ kiếm non xưa vọng nhớ về)
     Văn nhân không có được cái “đởm khí” của bậc danh tướng, xuân đến chỉ cảm thấy nỗi buồn xa nhà, xa người thân và nỗi lụy thân vào vòng danh lợi, như Nguyễn Du từng than thở:
     Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc
     Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên
     Hồng lĩnh vô gia huynh đệ tán
     Bạch đầu đa hận tuế thời thiên
     (Xuân hứng một trời nhà ai rụng
     Quỳnh Châu muôn dặm cảnh quây quần
     Nhà tan ngàn Hống lìa huynh đệ
     Hận chất đầu phơ vút tháng năm)
     Anh hùng tâm sự hoang trì sính
     Danh lợi doanh trường lụy tiếu tần
     Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo
     Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân
     (Nản chí anh hùng rong ruổi bước
     Lụy thân danh lợi buộc lơi vòng
     Lòng người sầu não xuân tươi thắm
     Thành Lạng vành khăn đẫm lệ ròng)
     Vui buồn lúc xuân đến tùy theo cuộc sống và cảnh ngộ của mỗi người. Có người lên núi ngắm cảnh trăng sáng đêm xuân và cảm thấy thú vị, như Vu Lương Sử:
     Xuân sơn đa thắng sự
     Thưởng ngoạn da vong qui
     Cúc thủy nguyệt tại thủ
     Lộng hoa hương mãn y
     (Non xuân lắm vẻ đẹp
     Nhìn ngắm đêm quên về
     Đầy tay trăng nước vốc
     Thưởng hoa áo hương đầy)
     Bạch Cư Dị thích ngắm cảnh hồ xuân ở Hàng Châu với tình luyến:
     Hồ thượng xuân lai tự họa đồ
     Loạn phong vi nhiễu thủy bình phô...
     Vị năng phao đắc Hàng Châu khứ
     Nhất bán câu lưu thị thử hồ
     (Xuân đến trên hồ đẹp tựa tranh
     Nước phô gương lặng núi vây quanh...
     Hàng Châu chưa nỡ rời đi được
     Một nửa luyến lưu hồ nước xinh)
     Với tinh thần “cư an tư nguy” (ở nơi yên nghĩ đến chỗ nguy), Đỗ Phủ vẫn thường lo đời, thấy mưa đêm xuân thì mừng với tiết mưa thuận gió hòa, đem lại cảnh an lạc, trong bài “Xuân dạ hỉ vũ” (Đêm xuân mừng mưa):
     Hảo vũ tri thời tiết
     Đương xuân nãi phát sinh
     Tùy phong tiềm nhật dạ
     Nhuận vật tế vô thanh
     (Mưa lành hay thời tiết
     Nẩy sinh buổi đang xuân
     Vào đêm ngầm theo gió
     Muôn vật lặng thấm nhuần)
     Vốn là nhà thơ lãng mạn, Lý Bạch thích tán dương vẻ đẹp của giai nhân, mượn cảnh xuân để mô tả vẻ đẹp của họ, đặc biệt là Dương Quý Phi, trong bài “Thanh Bình Điệu”:
     Vân tưởng y thường hoa tưởng dung
     Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng
     Giải thức xuân phong vô hạn hận
     Trầm hương đình bắc ỷ lan can
     (Mây ngờ xiêm áo hoa dung nhan
     Sương đượm nồng hoa, hiên gió xuân
     Trong gió xuân tan niềm oán hận
     Đình Trầm hương bắc, tựa lan can)
     Nguyễn Du, một tài thơ của đất Việt, đã diễn đạt rất thần tình vẻ đẹp của hai nàng tố nga bằng những ý thơ đậm màu sắc xuân:
     Mai cốt cách tuyết tinh thần
     Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
     Vân xem trang trọng khác vời
     Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
     Hoa cười ngọc thốt đoan trang
     Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
     Kiều càng sắc sảo mặn mà
     So bề tài sắc lại là phần hơn
     Làn thu thủy nét xuân sơn
     Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh...
     hoặc: Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai... (Kiều)
     Mai, tuyết, trăng, mây, hoa, liễu, thu thủy, xuân sơn, xuân lan, thu cúc... đều là những yếu tố đặc biệt của hai mùa (xuân, thu) đẹp nhất trong năm.
     Nguyễn Du cũng từng mô tả lễ hội trong mùa xuân với nhịp sống vui tươi rộn rịp của du khách:
     Thanh minh trong tiết tháng ba
     Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
     Gần xa nô nức yến anh
     Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
     Dập dìu tài tử giai nhân
     Ngựa xe như nước áo quần như nêm...
     Và cảnh đẹp nhất trong ngày hội ấy là cuộc gặp gỡ giữa đôi người trẻ, “người quốc sắc kẻ thiên tài”, giữa một khung cảnh thiên nhiên rực rỡ ánh xuân:
     Trông chừng thấy một văn nhân
     Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng
     Đề huề lưng túi gió trăng
     Sau lưng theo một vài thằng con con
     Tuyết in sắc ngựa câu dòn
     Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời
     Nẻo xa mới tỏ mặt người
     Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình
     Hài văn lần bước dặm xanh
     Một vùng như thể cây quỳnh cành dao...
     (Kiều)
     Nguyễn Công Trứ cho rằng xuân là mùa quí nhất trong bốn mùa, một khắc đêm xuân đáng giá nghìn vàng:
     Hội đạp thanh xa mã dập dìu
     Nghìn vàng một khắc xuân tiêu
     (Cảnh Xuân)
     Người ta vui đón lúc xuân mới sang và không khỏi buồn tiếc lúc xuân tàn:
     Lạc hoa phi nhứ thành xuân mộng
     Thặng thủy tàn sơn dị tích du
     (Mộ xuân hoài cảm – Đái Thúc Luân)
     Cảm xúc nhất là lúc cuối xuân, khách đi xa về thăm nhà thấy cảnh vật hoang vắng, tiêu sơ, chỉ còn khóm trúc xanh chờ đợi chủ về ngắm đỡ buồn:
     Cốc khẩu xuân tàn hoàng điểu hi
     Tân di hoa tận hạnh hoa phi
     Thỉ liên u trúc sơn song hạ
     Bất cải thanh âm đãi ngã qui
     (Mộ Xuân Qui Cố Sơn Thảo Đường-Tiền Khởi)
     Cửa động xuân tàn oanh yến thưa
     Tân di cạn lứa hạnh phai vừa
     Cảm thương khóm trúc bên song ấy
     Vẫn bóng xanh chờ đón chủ xưa
     (Cuối Xuân Về Nhà Trên Núi Cũ)
     Không phải chỉ cảnh xuân tàn người ta mới thấy buồn. Lúc xuân đến, thăm lại ngôi nhà hoang vắng với cảnh vật vô tình, cái cảm giác bâng khuâng ngậm ngùi lại càng tăng gấp bội:
     Lương viên nhật mộ loạn phi nha
     Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia
     Đình thụ bất tri nhân khứ tận
     Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa
     (Sầm Tham – Sơn Phòng Xuân Sự)
     Xao xác vườn Lương lượn quạ chiều
     Nhà xa dăm mái ngó tiêu điều
     Cây sân, người vắng, sao hờ hững
     Xuân đến hoa xưa lại nở nhiều
     (Cảnh Xuân Nhà Trên Núi)
     Vua Trần Thánh Tôn (đời Trần) khi dạo vườn trong cung thấy hoa xuân nở, buồn nhớ người xưa:
     Môn không trần yểm kính sinh đài
     Bạch trú trầm trầm thiểu vãng lai
     Vạn tử thiên hồng không lạn mạn
     Xuân hoa như hử vị thùy khai
     (Cung Viên Xuân Hoài Cựu)
     Đường rêu bụi phủ cửa bên ngoài
     Hiu quạnh ngày thưa kẻ vãng lai
     Nghìn tía muôn hồng đua sắc thắm
     Hoa xuân còn đó nở vì ai ?
     (Vườn Cung Xuân Nhớ Người Xưa)
     Cảnh xuân làm vui người vô sự, nhưng lại làm buồn nhiều cho những người sống trong cô đơn, phòng không gối chiếc, những ly phụ thời chinh chiến, đêm nằm mơ đến chỗ chồng đi thú ở Ngư Dương, trong thơ Đái Thúc Luân:
     Niểu niểu thành biên liễu
     Thanh thanh mạch thượng tang
     Đề lung vong thái diệp
     Tạc dạ mộng Ngư Dương
     (Xuân Khuê)
     Bên thành phất phơ liễu
     Xanh xanh dâu trên đường
     Giỏ đeo quên hái lá
     Đêm qua mộng Ngư Dương
     (Xuân Của Người Phòng Khuê)
     Hay người chinh phụ mong đợi chồng về theo lời hẹn năm trước:
     Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
     Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca
     Nay quyên đã giục oanh già
     Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo
     Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió
     Hỏi ngày về chỉ độ đào bông
     Nay đào đã cuốn gió đông
     Phù dung lại nở bên sông  sờ
     Hẹn cùng ta Lũng Tây năm ấy
     Sớm đã trông nào thấy hơi tăm...
     (Đoàn Thị Điểm – Chinh Phụ Ngâm)
     Người thiếu phụ của Vương Xương Linh thì hối tiếc đã xui chồng đi xa tìm đường công danh, thấy khuê phòng vắng lạnh lúc xuân về:
     Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
     Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
     Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
     Hối giao phu tế mịch phong hầu
     (Khuê Oán)
     Phòng khuê sầu hận chẳng vương nàng
     Lên gác ngày xuân đẹp điểm trang
     Bất chợt bên đường trông dáng liễu
     Công danh tìm kiếm tiếc xui chàng
     (Oán Hận Phòng Khuê)
     Bi thảm nhất là cảnh ngộ người chinh phu trở thành vị vong nhân khi chồng bỏ thân nơi chiến trường, để buồng xuân lạnh lẽo:
     Thệ tảo Hung Nô bất cố thân
     Tam thiên điêu cẩm táng Hồ trần
     Khả liên vô định hà biên cốt
     Do thị xuân khuê mộng lý nhân
     (Trần Đào – Lũng Tây Hành)
     Hung nô thệ diệt vẫn quên thân
     Vùi xác đất Hồ biết mấy quân
     Vô định bên sông xương xót lấp
     Chỉ còn trong mộng kẻ buồng xuân
     (Khúc Hát Lũng Tây)
     Cảnh xuân tươi đẹp cũng có khi làm chết lòng người trong cuộc chia tay giữa hai người bạn thân thiết, trong thơ Trịnh Cốc:
     Dương tử giang đầu dương liễu xuân
     Dương hoa sầu sát độ giang nhân
     Sổ thanh phong địch ly đình vãn
     Quân hướng Tiêu tương ngã hướng Tần
     (Hoài Thượng Biệt Hữu)
     Đầu sông dương liễu xuân tươi
     Hoa dương buồn chết dạ người sang sông
     Ly đình sáo vẳng từng không
     Dặm Tiêu anh ruổi tôi trông nẻo Tần
     (Sông Hoài Biệt Bạn)
     Đáng buồn cho duyên phận người cung nữ được vua yêu quí lúc ban đầu với tuổi xanh đẹp như hoa xuân:
     Chồi thược dược mơ mòng thụy vũ
     Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu
     Cành xuân hoa chúm chím chào
     Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai
     nhưng rồi lại gặp cảnh phòng không chiếc bóng vì tình vua đã phai nhạt:
     Đông quân sao khéo vô tình
     Cành hoa tàn nguyệt bực mình hoài xuân
     (Nguyễn Gia Thiều - Cung Oán Ngâm Khúc)
     Đời người vẫn được xem như là một giấc xuân mộng, cuộc sống chỉ là phù du:
     Xử thế nhược đại mộng
     Hồ vi lao kỳ sinh
     (Lý Bạch)
     (Cuộc đời như mộng lớn
     Sống lao đao làm gì ?)
     Cho nên Đỗ Phủ vốn là con người của cuộc đời thực tế mà còn có lúc thấy xuân qua cũng than buồn và không màn đến danh lợi; nên vui chơi:
     Nhất phiến phi hoa giảm khước xuân
     Phong phiêu vạn điểm chính sầu nhân...
     Tế suy vật lý tu hành lạc
     Hà dụng phù danh bạn thử thân
     (Khúc Giang)
     Một cánh hoa bay giảm vẻ xuân
     Sầu ai bàng bạc gió xoay vần...
     Gẫm suy lẽ vật nên vui thỏa
     Danh vọng mà chi bận tấm thân
     (Sông Khúc)
     Lý Bạch từng mô tả: “Phù thiên địa giả vạn vật chi nghịch lữ, quang âm giả bách đại chi quá khách...” (Ôi trời đất là quán trọ của muôn vật, ánh sáng là khách qua của trăm đời...)
     Thấu rõ lẽ đó, Vương Duy có thơ:
     Nhật nhật nhân không lão
     Niên niên xuân cánh qui
     Tương hoan hữu tôn tửu
     Bất dụng tích hoa phi
     (Tống Xuân Từ)
     Ngày ngày người lớn tuổi
     Năm năm xuân lại về
     Vui say vò rượu đó
     Hoa rụng tiếc làm chi
     (Thơ Tiền Xuân)
     Xuân, hưởng thụ với rượu với thơ, hoặc khác hơn, sống bình thản và quên lãng mọi sự ở đời như Mạnh Hạo Nhiên:
     Xuân miên bất giác hiểu
     Xứ xứ văn đề điểu
     Dạ lai phong vũ thanh
     Hoa lạc tri đa thiểu
     (Xuân Hiểu)
     Giấc xuân sáng nào biết
     Khắp nơi chim ríu rít
     Đêm nghe tiếng gió mưa
     Hoa rụng nhiều hay ít ?
     (Sáng Xuân)
     Như vua Trần Nhân Tôn, trong bài “Xuân hiểu”:
     Thụy khởi khải song phi
     Bất tri xuân dĩ qui
     Nhất song bạch hồ điệp
     Phách phách sấn hoa phi
     (Thức giấc vén song the
     Nào hay xuân đã về
     Sóng đôi cánh bướm trắng
     Phơ phất lượn hoa kia)
     Tính cách nhàn dật, phóng khoáng làm cho đời người bớt buồn lo trong cuộc sống thường ngày. Ở bậc cao hơn, các thiền sư nhìn đời theo lẽ vô thường, cảnh xuân trước mắt dù tươi đẹp, quyến rủ bao nhiêu cũng là ảo ảnh:
     Xuân lai hoa điệp thiện tri thì
     Hoa điệp ưng tu cọng ứng kỳ
     Hoa điệp bản lai giai thị huyễn
     Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì
     (Giác Hải)
     (Xuân đến bướm hoa quen tiết ra
     Đúng kỳ xuất hiện bướm cùng hoa
     Bướm hoa vốn gốc đều hư ảo
     Chẳng để loài kia vương vấn ta)
     Xuân đến xuân đi chỉ là chỉ là sự tuần hoàn của trời đất, không có gì là tồn tại miên trường, cũng không có gì là mất đi vĩnh viễn:
     Xuân khứ bách hoa tận
     Xuân đáo bách hoa khai
     Sự trục nhãn tiền quá
     Lão tòng đầu thượng lai
     Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
     Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
     (Mãn Giác)
     (Xuân đi trăm hoa rụng
     Xuân về trăm hoa tươi
     Việc đời qua trước mắt
     Trên đầu già đến thôi
     Chớ bảo xuân tàn hoa rụng sạch
     Sân đêm vừa nở một cành mai)
     Huống chi thân phận con người rất mong manh, đời người ở cõi trần là tạm bợ, chỉ tìm thấy cuộc sống miên viễn ở thế giới khác, thành thử không nên sợ về sự sống chết hiện tại:
     Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
     Thảo mộc xuân vinh thu hựu khô
     Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
     Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
     (Vạn Hạnh)
     (Thân như ánh chớp có rồi không
     Cây cỏ xuân tươi thu úa ròng
     Gẫm lẽ thịnh suy lòng chẳng bận
     Thịnh suy đầu cỏ hạt sương trong)
     Lý hội lẽ nhiệm mầu của trời đất như vậy, nên dù ở cương vị một vị vua, sống trong cảnh vương giả, Trần Nhân Tôn vẫn xem thường mọi việc ở đời, chỉ ngắm nhìn trời xuân xanh biếc mà thấy lòng thanh thản:
     Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì
     Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi
     Khách lai bất vấn nhân gian sự
     Chỉ bạng lan can khán thúy vi
     (Xuân Cảnh)
     Tiếng chim thưa hoa liễu đầy cành
     Chiều dọi thềm hoa mây thoáng nhanh
     Khách đến chuyện đời không hỏi tới
     Chỉ bao lơn tựa ngắm trời xanh
     (Cảnh Xuân)
oOo
     Ngoài những vần thơ xuân biểu hiện cảm xúc về thiên nhiên, gia đình, đất nước, thân phận con người trong xã hội, ta thấy một số nhà thơ Trung Hoa có khuynh hướng Lão Trang khi diễn đạt tư tưởng về cuộc sống nhàn dật, phóng khoáng của mình, coi đời như là mộng, nên muốn tận hưởng các thú vui xuân như uống rượu, ngâm thơ, xem hoa, ngắm trăng, hoặc lãng mạn hơn, chiêm ngưỡng giai nhân, hay triết lý hơn, sống lãng quên đời, như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên...
     Khác với họ, các thi gia Việt muốn hiển dương thiền đạo, trong khi hội nhập vào cuộc vận hành của thiên nhiên, quán triệt lẽ vô thường của vạn vật, xem sự hưng thịnh, suy vong, sống, chết là một nhất thể, hay là một diễn biến liên tục của đời người từ cõi trần qua một cảnh giới khác (sinh ký tử qui : sống gởi thác về), như trong thơ của các thiền sư Giác Hải, Mãn Giác, Vạn Hạnh, vua Trần Nhân Tôn (cũng là thiền sư về sau)...
     Mùa xuân được diễn tả thật đa dạng với những lời thơ tuyệt diệu, hình ảnh, ý tưởng tân kỳ của những thi tài bất hủ Hoa-Việt, dù có tính chất lạc quan hay bi quan.
     Ta không khỏi cảm xúc nhiều khi ngâm ngợi những vần thơ đẹp ấy, bên cốc rượu ngọt hay tách trà hương mỗi độ xuân về, tết đến, nhất là khi ở quê người bắt gặp những dòng thơ mang đầy tâm sự của kẻ tha hương./.
Linh Thảo

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét