Trung Hoa là xứ sở với thời tiết có đủ bốn mùa trong năm: xuân, hạ, thu, đông. Có lẽ mùa xuân được nhắc nhở nhiều trong thơ văn của họ, mặc dầu người Trung Hoa có những thú hưởng thụ trong bốn mùa:
Xuân du phương thảo địa
Hạ thưởng lục hà trì
Thu ẩm hoàng hoa tửu
Đông ngâm bạch tuyết thi
(Xuân chơi miền cỏ thơm
Hạ thưởng hồ sen biếc
Thu nhắm rượu cúc vàng
Đông ngâm thơ tuyết bạc)
Nhưng hồn xuân vẫn bộc lộ trong những thú hưởng lạc ấy của con người. Mùa xuân là mùa hồi sinh của vạn vật. Cây trổ lộc đơm hoa, đồng cỏ khô héo trong mùa đông trở nên xanh tốt. Người Trung Hoa thường có hội “đạp thanh” (dẫm trên cỏ xanh) hàng năm, vào tiết thanh minh:
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh (Kiều)
Cỏ xanh tốt trên những cánh đồng bao la biểu hiện sức sống mãnh liệt, sự trường tồn, vươn lên, bất khuất của muôn loài trong thiên nhiên.
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa (Kiều)
Màu xanh của cỏ, màu trắng của hoa lê, hai màu hòa hợp làm nổi bật sắc thái tươi đẹp của mùa xuân. Cỏ là loài cây có tính sinh tồn mạnh mẽ, vượt qua mọi hoàn cảnh sinh tử:
Ly ly nguyên thượng thảo
Nhất tuế nhất khô vinh
Dã hỏa thiêu bất tận
Xuân phong xuy hựu sinh
(Bạch Cư Dị)
(Cỏ trên đồng bát ngát
Hàng năm lượt khô xanh
Lửa thiêu không cháy sạch
Gió xuân về nẩy sinh)
Cỏ xanh tươi, mượt mà trong mùa xuân lại là nguồn cảm hứng cho thi nhân:
Viễn phương xâm cổ đạo
Tình thúy tiếp hoang thành
Hựu tống vương tôn khứ
Thê thê mãn biệt tình
(Thảo – Bạch Cư Dị)
Xa dài thơm ngát lối
Tạnh mưa biếc gợn thành
Vương tôn lại tiễn bước
Lai láng nỗi ly tình
(Cỏ – Bạch Cư Dị)
Cỏ là cái nền mà hoa là những nét chấm phá của bức tranh xuân. Xuân đến, muôn hoa nở rộ. Người ta dạo chơi miền cỏ thơm, uống rượu xem hoa, như Lưu Vũ Tích trong bài “Ẩm tửu khán mẫu đơn” (Uống rượu xem hoa mẫu đơn):
Kim nhật hoa tiền ẩm
Đãn sầu hoa hữu ngữ
Bất vị lão nhân khai
(Hôm nay bên hoa uống
Say sưa vài chén qua
Chỉ buồn hoa biết nói
Nở đâu vì tuổi già)
Hoặc người ta thưởng ngoạn hoa mai. Mai là một trong bốn loại cây quí (tứ hữu): mai, lan, cúc, trúc. Mai thường nở hoa đầu xuân, ở Việt Nam , vào dịp Tết nguyên đán, cùng lượt với hoa đào.
Ở Trung Hoa, người ta thường có cái thú “ đạp tuyết tầm mai” (dẫm tuyết tìm mai), nghĩa là dạo chơi trong mùa tuyết để ngắm hoa mai nở đẹp trong mùa xuân.
Hoa mai và quả mai (mơ) thường tượng trưng cho mùa xuân và tuổi trẻ, cũng như hoa đào và quả đào (mận) vậy:
Quả mai ba bảy đương vừa
Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì (Kiều)
- Đào hồng hựu kiến nhất niên xuân (Đường Thi)
(Đào (nở) hồng lại thấy một mùa xuân)
Những bậc danh sĩ một khi lánh đời, tìm nơi ẩn dật ở chốn lâm tuyền thường lấy cỏ cây, chim muông làm bạn, cũng là một cách hưởng thụ xuân đời, như Nguyễn Du khi hết vướng bận với quan trường:
Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ hạc là người quen
Hoa đào nở vào mùa xuân còn được xem như là biểu tượng của tình yêu. Thôi Hộ, một thi nhân đời Đường, tình cờ đi ngang qua cửa một vườn nhà, say sưa ngắm giai nhân đứng bên gốc đào. Năm sau trở lại không thấy người đẹp. Ông buồn lòng ghi lại cảm xúc trong bài thơ:
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
Ngày này năm ngoái bên hiên
Má hồng soi ánh hồng bên hoa đào
Má hồng nay vắng tăm hao
Hoa đào năm ngoái cười chào gió xuân
Thiên huyền thoại về hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu đi chơi núi Thiên Thai, men theo rừng đào tình cờ gặp các tiên nữ rồi sống với họ trong một thời gian. Sau nhớ quê trở về thì cõi trần đã trải qua hàng trăm năm. Lưu Nguyễn tìm đường trở lại Thiên Thai, mong nối lại cuộc sống cũ thì động tiên không còn nữa. Hoa đào hiện diện trong thơ Tào Đường, mô tả cuộc gặp gỡ kỳ thú của hai chàng Lưu Nguyễn:
Bất tri thử địa qui hà xứ
Tu tựu Đào nguyên vấn chủ nhân
(Đây thuộc về đâu ai ấy chủ
Nguồn Đào muốn đến hỏi thăm nhau)
Ngọc sa dao thảo duyên khê bích
Lưu thủy đào hoa mãn giản hương
(Cát nâng bờ cỏ ven khe biếc
Nước cuộn hoa đào ngát suối trôi)
Đào hoa lưu thủy y nhiên tại
Bất kiến đương thời khuyến tửu nhân
(Hoa đào nước chảy còn trơ đó
Đâu bóng người xưa chuốc chén say
Mùa xuân hồi phục thiên nhiên, làm tươi trẻ cuộc đời, tạo dịp vui sống cho con người. Nhà thơ Lý Bạch cùng bạn hữu nhóm họp, mở tiệc trong vườn đào lý:
“Huống dương xuân triệu ngã dĩ yên cảnh, đại khối tá ngã dĩ văn chương, hội đào lý chi phương viên tự thiên luân chi lạc sự...” (Huống chi ngày xuân hiến ta cảnh đẹp, đất trời cho mượn nguồn văn, họp mặt vườn thơmđào mận, niềm vui từ nơi đạo lớn...)
Nhóm thi nhân nầy quan niệm cuộc đời chỉ là hư ảo và họ chỉ muốn tận hưởng niềm vui xuân như người xưa, đốt đuốc chơi đêm, vầy tiệc, uống rượu, làm thơ.
“Nhi phù sinh nhược mộng vi hoan kỷ hà ? Cổ nhân bỉnh chúc dạ du lương hữu dĩ dã... Khai quỳnh diên dĩ tọa hoa, phi vũ trường nhi tuế nguyệt. Như thi bất thành, phạt y kim cốc tửu số.” (Mà kiếp phù sinh như mộng, vui được bao nhiêu? Người xưa đốt đuốc chơi đêm, quả điều hay vậy... Mở tiệc quỳnh ngồi ở bên hoa, tung chén cánh say lả dưới trăng. Thơ làm chẳng xong, phạt đúng số rượu ở vườn Kim.)
Mùa xuân quá quyến rủ con người với nắng ấm, với trăng thanh gió mát. Cho nên vào dịp nầy, Lý Bạch không những vầy bạn cùng uống rượu để tìm hứng cảm cho thơ, giải buồn muôn thuở:
Hội tu nhất ẩm tam bách bôi...
Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu
(Ba trăm chung đánh ngã một hơi...
Uống cho vạn cổ sầu vơi)
Mà khi thấy trăng đẹp chiếu trên đá, ông cao hứng tự chuốc rượu cho mình:
Đối thử thạch thượng nguyệt
Trường túy ca phương phi
(Đối bóng trăng trên đá
Say hát khúc phương phi)
Ông uống say mèm, đến khi tỉnh giấc chẳng biết hôm ấy là ngày nào, chỉ nghe tiếng chim hót trong hoa, gió xuân thoang thoảng:
Giác lai phán đình tiền
Nhất điểu hoa gian minh
Tá vấn thử hà nhật
Xuân phong ngữ lưu oanh
(Tỉnh dậy trông sân trước
Tiếng chim hót trong hoa
Hôm nay ngày nào nhỉ
Gió xuân thoảng oanh ca)
Cảnh xuân nhiều vẻ, trong thơ cũng không ít màu sắc, hình ảnh, ý tưởng được phô diễn đa dạng. Lý Bạch vui xuân với tâm hồn phóng khoáng, đầy tính chất hưởng lạc, bởi vì ông xem cuộc đời như một giấc mộng lớn:
Xử thế nhược đại mộng
Hồ vi lao kỳ sinh
(Đời như giấc mộng lớn
Sống lao đao làm gì ?)
Khác với Lý Bạch, Đỗ Phủ một đời lận đận trên đường bôn ba, thời loạn cũng như thời bình, xa gia đình xứ sở, ông nhìn xuân với nhãn quan của một người ưu thời mẫn thế:
Quốc phá sơn hà tại
Thành xuân thảo mộc thâm
Cảm thời hoa tiền lệ
Hận biệt điểu kinh tâm
Phong hỏa liên tam nguyệt
Gia thư để vạn câm (kim)
Bạch đầu tao cánh đoản
Hồn dục bất thăng trâm
(Xuân vọng)
(Nước mất còn sông núi
Thành xuân cây cỏ cao
Cảm đời hoa rơi lệ
Hận biệt lòng chim đau
Khói lửa liền ba tháng
Thư nhà đắt giá sao
Bạc đầu tóc ngắn gãi
Không dễ búi cài đâu
(Trông Cảnh Xuân)
Cái tinh thần “tiên ưu thiên hạ chi ưu” (lo trước cái lo của thiên hạ) này, vẫn từng có ở danh tướng Trần Quang Khải (đời Trần) dù đến tuổi già vẫn tưởng nghĩ đến ơn vua nợ nước, nói lên lòng cảm khái trong buổi ngày xuân:
Cố quốc tâm hoàn phi điểu quyện
Ân ba hải khoát túng lân trì
Sinh bình đởm khí luân huân tại
Giải đảo đông phong nhất phú thi...
Khư sầu lại hữu tam bôi tửu
Phủ kiếm du du ức cố sơn
(Xuân Nhật Hữu Cảm)
(Nước cũ hồn mơ chim mỏi cánh
Ơn xưa bể thẳm cá chùng vây
Bình sinh chí khí giờ chưa nhụ u
Quật gió xuân xoay xướng vận hay...
Tiêu sầu những cậy ba chung rượu
Gõ kiếm non xưa vọng nhớ về)
Văn nhân không có được cái “đởm khí” của bậc danh tướng, xuân đến chỉ cảm thấy nỗi buồn xa nhà, xa người thân và nỗi lụy thân vào vòng danh lợi, như Nguyễn Du từng than thở:
Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc
Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên
Hồng lĩnh vô gia huynh đệ tán
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên
(Xuân hứng một trời nhà ai rụng
Quỳnh Châu muôn dặm cảnh quây quần
Nhà tan ngàn Hống lìa huynh đệ
Hận chất đầu phơ vút tháng năm)
Anh hùng tâm sự hoang trì sính
Danh lợi doanh trường lụy tiếu tần
Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo
Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân
(Nản chí anh hùng rong ruổi bước
Lụy thân danh lợi buộc lơi vòng
Lòng người sầu não xuân tươi thắm
Thành Lạng vành khăn đẫm lệ ròng)
Vui buồn lúc xuân đến tùy theo cuộc sống và cảnh ngộ của mỗi người. Có người lên núi ngắm cảnh trăng sáng đêm xuân và cảm thấy thú vị, như Vu Lương Sử:
Xuân sơn đa thắng sự
Thưởng ngoạn da vong qui
Cúc thủy nguyệt tại thủ
Lộng hoa hương mãn y
(Non xuân lắm vẻ đẹp
Nhìn ngắm đêm quên về
Đầy tay trăng nước vốc
Thưởng hoa áo hương đầy)
Bạch Cư Dị thích ngắm cảnh hồ xuân ở Hàng Châu với tình luyến:
Hồ thượng xuân lai tự họa đồ
Loạn phong vi nhiễu thủy bình phô...
Vị năng phao đắc Hàng Châu khứ
Nhất bán câu lưu thị thử hồ
(Xuân đến trên hồ đẹp tựa tranh
Nước phô gương lặng núi vây quanh...
Hàng Châu chưa nỡ rời đi được
Một nửa luyến lưu hồ nước xinh)
Với tinh thần “cư an tư nguy” (ở nơi yên nghĩ đến chỗ nguy), Đỗ Phủ vẫn thường lo đời, thấy mưa đêm xuân thì mừng với tiết mưa thuận gió hòa, đem lại cảnh an lạc, trong bài “Xuân dạ hỉ vũ” (Đêm xuân mừng mưa):
Hảo vũ tri thời tiết
Đương xuân nãi phát sinh
Tùy phong tiềm nhật dạ
Nhuận vật tế vô thanh
(Mưa lành hay thời tiết
Nẩy sinh buổi đang xuân
Vào đêm ngầm theo gió
Muôn vật lặng thấm nhuần)
Vốn là nhà thơ lãng mạn, Lý Bạch thích tán dương vẻ đẹp của giai nhân, mượn cảnh xuân để mô tả vẻ đẹp của họ, đặc biệt là Dương Quý Phi, trong bài “Thanh Bình Điệu”:
Vân tưởng y thường hoa tưởng dung
Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng
Giải thức xuân phong vô hạn hận
Trầm hương đình bắc ỷ lan can
(Mây ngờ xiêm áo hoa dung nhan
Sương đượm nồng hoa, hiên gió xuân
Trong gió xuân tan niềm oán hận
Đình Trầm hương bắc, tựa lan can)
Nguyễn Du, một tài thơ của đất Việt, đã diễn đạt rất thần tình vẻ đẹp của hai nàng tố nga bằng những ý thơ đậm màu sắc xuân:
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh...
hoặc: Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai... (Kiều)
Mai, tuyết, trăng, mây, hoa, liễu, thu thủy, xuân sơn, xuân lan, thu cúc... đều là những yếu tố đặc biệt của hai mùa (xuân, thu) đẹp nhất trong năm.
Nguyễn Du cũng từng mô tả lễ hội trong mùa xuân với nhịp sống vui tươi rộn rịp của du khách:
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm...
Và cảnh đẹp nhất trong ngày hội ấy là cuộc gặp gỡ giữa đôi người trẻ, “người quốc sắc kẻ thiên tài”, giữa một khung cảnh thiên nhiên rực rỡ ánh xuân:
Trông chừng thấy một văn nhân
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng
Đề huề lưng túi gió trăng
Sau lưng theo một vài thằng con con
Tuyết in sắc ngựa câu dòn
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời
Nẻo xa mới tỏ mặt người
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình
Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao...
(Kiều)
Nguyễn Công Trứ cho rằng xuân là mùa quí nhất trong bốn mùa, một khắc đêm xuân đáng giá nghìn vàng:
Hội đạp thanh xa mã dập dìu
Nghìn vàng một khắc xuân tiêu
(Cảnh Xuân)
Người ta vui đón lúc xuân mới sang và không khỏi buồn tiếc lúc xuân tàn:
Lạc hoa phi nhứ thành xuân mộng
Thặng thủy tàn sơn dị tích du
(Mộ xuân hoài cảm – Đái Thúc Luân)
Cảm xúc nhất là lúc cuối xuân, khách đi xa về thăm nhà thấy cảnh vật hoang vắng, tiêu sơ, chỉ còn khóm trúc xanh chờ đợi chủ về ngắm đỡ buồn:
Cốc khẩu xuân tàn hoàng điểu hi
Tân di hoa tận hạnh hoa phi
Thỉ liên u trúc sơn song hạ
Bất cải thanh âm đãi ngã qui
(Mộ Xuân Qui Cố Sơn Thảo Đường-Tiền Khởi)
Cửa động xuân tàn oanh yến thưa
Tân di cạn lứa hạnh phai vừa
Cảm thương khóm trúc bên song ấy
Vẫn bóng xanh chờ đón chủ xưa
(Cuối Xuân Về Nhà Trên Núi Cũ)
Không phải chỉ cảnh xuân tàn người ta mới thấy buồn. Lúc xuân đến, thăm lại ngôi nhà hoang vắng với cảnh vật vô tình, cái cảm giác bâng khuâng ngậm ngùi lại càng tăng gấp bội:
Lương viên nhật mộ loạn phi nha
Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia
Đình thụ bất tri nhân khứ tận
Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa
(Sầm Tham – Sơn Phòng Xuân Sự)
Xao xác vườn Lương lượn quạ chiều
Nhà xa dăm mái ngó tiêu điều
Cây sân, người vắng, sao hờ hững
Xuân đến hoa xưa lại nở nhiều
(Cảnh Xuân Nhà Trên Núi)
Vua Trần Thánh Tôn (đời Trần) khi dạo vườn trong cung thấy hoa xuân nở, buồn nhớ người xưa:
Môn không trần yểm kính sinh đài
Bạch trú trầm trầm thiểu vãng lai
Vạn tử thiên hồng không lạn mạn
Xuân hoa như hử vị thùy khai
(Cung Viên Xuân Hoài Cựu)
Đường rêu bụi phủ cửa bên ngoài
Hiu quạnh ngày thưa kẻ vãng lai
Nghìn tía muôn hồng đua sắc thắm
Hoa xuân còn đó nở vì ai ?
(Vườn Cung Xuân Nhớ Người Xưa)
Cảnh xuân làm vui người vô sự, nhưng lại làm buồn nhiều cho những người sống trong cô đơn, phòng không gối chiếc, những ly phụ thời chinh chiến, đêm nằm mơ đến chỗ chồng đi thú ở Ngư Dương, trong thơ Đái Thúc Luân:
Niểu niểu thành biên liễu
Thanh thanh mạch thượng tang
Đề lung vong thái diệp
Tạc dạ mộng Ngư Dương
(Xuân Khuê)
Bên thành phất phơ liễu
Xanh xanh dâu trên đường
Giỏ đeo quên hái lá
Đêm qua mộng Ngư Dương
(Xuân Của Người Phòng Khuê)
Hay người chinh phụ mong đợi chồng về theo lời hẹn năm trước:
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca
Nay quyên đã giục oanh già
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông
Nay đào đã cuốn gió đông
Phù dung lại nở bên sông bơ sờ
Hẹn cùng ta Lũng Tây năm ấy
Sớm đã trông nào thấy hơi tăm...
(Đoàn Thị Điểm – Chinh Phụ Ngâm)
Người thiếu phụ của Vương Xương Linh thì hối tiếc đã xui chồng đi xa tìm đường công danh, thấy khuê phòng vắng lạnh lúc xuân về:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
(Khuê Oán)
Phòng khuê sầu hận chẳng vương nàng
Lên gác ngày xuân đẹp điểm trang
Bất chợt bên đường trông dáng liễu
Công danh tìm kiếm tiếc xui chàng
(Oán Hận Phòng Khuê)
Bi thảm nhất là cảnh ngộ người chinh phu trở thành vị vong nhân khi chồng bỏ thân nơi chiến trường, để buồng xuân lạnh lẽo:
Thệ tảo Hung Nô bất cố thân
Tam thiên điêu cẩm táng Hồ trần
Khả liên vô định hà biên cốt
Do thị xuân khuê mộng lý nhân
(Trần Đào – Lũng Tây Hành)
Hung nô thệ diệt vẫn quên thân
Vùi xác đất Hồ biết mấy quân
Vô định bên sông xương xót lấp
Chỉ còn trong mộng kẻ buồng xuân
(Khúc Hát Lũng Tây)
Cảnh xuân tươi đẹp cũng có khi làm chết lòng người trong cuộc chia tay giữa hai người bạn thân thiết, trong thơ Trịnh Cốc:
Dương tử giang đầu dương liễu xuân
Dương hoa sầu sát độ giang nhân
Sổ thanh phong địch ly đình vãn
Quân hướng Tiêu tương ngã hướng Tần
(Hoài Thượng Biệt Hữu)
Đầu sông dương liễu xuân tươi
Hoa dương buồn chết dạ người sang sông
Ly đình sáo vẳng từng không
Dặm Tiêu anh ruổi tôi trông nẻo Tần
(Sông Hoài Biệt Bạn)
Đáng buồn cho duyên phận người cung nữ được vua yêu quí lúc ban đầu với tuổi xanh đẹp như hoa xuân:
Chồi thược dược mơ mòng thụy vũ
Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu
Cành xuân hoa chúm chím chào
Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai
nhưng rồi lại gặp cảnh phòng không chiếc bóng vì tình vua đã phai nhạt:
Đông quân sao khéo vô tình
Cành hoa tàn nguyệt bực mình hoài xuân
(Nguyễn Gia Thiều - Cung Oán Ngâm Khúc)
Đời người vẫn được xem như là một giấc xuân mộng, cuộc sống chỉ là phù du:
Xử thế nhược đại mộng
Hồ vi lao kỳ sinh
(Lý Bạch)
(Cuộc đời như mộng lớn
Sống lao đao làm gì ?)
Cho nên Đỗ Phủ vốn là con người của cuộc đời thực tế mà còn có lúc thấy xuân qua cũng than buồn và không màn đến danh lợi; nên vui chơi:
Nhất phiến phi hoa giảm khước xuân
Phong phiêu vạn điểm chính sầu nhân...
Tế suy vật lý tu hành lạc
Hà dụng phù danh bạn thử thân
(Khúc Giang)
Một cánh hoa bay giảm vẻ xuân
Sầu ai bàng bạc gió xoay vần...
Gẫm suy lẽ vật nên vui thỏa
Danh vọng mà chi bận tấm thân
(Sông Khúc)
Lý Bạch từng mô tả: “Phù thiên địa giả vạn vật chi nghịch lữ, quang âm giả bách đại chi quá khách...” (Ôi trời đất là quán trọ của muôn vật, ánh sáng là khách qua của trăm đời...)
Thấu rõ lẽ đó, Vương Duy có thơ:
Nhật nhật nhân không lão
Niên niên xuân cánh qui
Tương hoan hữu tôn tửu
Bất dụng tích hoa phi
(Tống Xuân Từ)
Ngày ngày người lớn tuổi
Năm năm xuân lại về
Vui say vò rượu đó
Hoa rụng tiếc làm chi
(Thơ Tiền Xuân)
Xuân, hưởng thụ với rượu với thơ, hoặc khác hơn, sống bình thản và quên lãng mọi sự ở đời như Mạnh Hạo Nhiên:
Xuân miên bất giác hiểu
Xứ xứ văn đề điểu
Dạ lai phong vũ thanh
Hoa lạc tri đa thiểu
(Xuân Hiểu)
Giấc xuân sáng nào biết
Khắp nơi chim ríu rít
Đêm nghe tiếng gió mưa
Hoa rụng nhiều hay ít ?
(Sáng Xuân)
Như vua Trần Nhân Tôn, trong bài “Xuân hiểu”:
Thụy khởi khải song phi
Bất tri xuân dĩ qui
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi
(Thức giấc vén song the
Nào hay xuân đã về
Sóng đôi cánh bướm trắng
Phơ phất lượn hoa kia)
Tính cách nhàn dật, phóng khoáng làm cho đời người bớt buồn lo trong cuộc sống thường ngày. Ở bậc cao hơn, các thiền sư nhìn đời theo lẽ vô thường, cảnh xuân trước mắt dù tươi đẹp, quyến rủ bao nhiêu cũng là ảo ảnh:
Xuân lai hoa điệp thiện tri thì
Hoa điệp ưng tu cọng ứng kỳ
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì
(Giác Hải)
(Xuân đến bướm hoa quen tiết ra
Đúng kỳ xuất hiện bướm cùng hoa
Bướm hoa vốn gốc đều hư ảo
Chẳng để loài kia vương vấn ta)
Xuân đến xuân đi chỉ là chỉ là sự tuần hoàn của trời đất, không có gì là tồn tại miên trường, cũng không có gì là mất đi vĩnh viễn:
Xuân khứ bách hoa tận
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Mãn Giác)
(Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân về trăm hoa tươi
Việc đời qua trước mắt
Trên đầu già đến thôi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng sạch
Sân đêm vừa nở một cành mai)
Huống chi thân phận con người rất mong manh, đời người ở cõi trần là tạm bợ, chỉ tìm thấy cuộc sống miên viễn ở thế giới khác, thành thử không nên sợ về sự sống chết hiện tại:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Thảo mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
(Vạn Hạnh)
(Thân như ánh chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi thu úa ròng
Gẫm lẽ thịnh suy lòng chẳng bận
Thịnh suy đầu cỏ hạt sương trong)
Lý hội lẽ nhiệm mầu của trời đất như vậy, nên dù ở cương vị một vị vua, sống trong cảnh vương giả, Trần Nhân Tôn vẫn xem thường mọi việc ở đời, chỉ ngắm nhìn trời xuân xanh biếc mà thấy lòng thanh thản:
Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi
Khách lai bất vấn nhân gian sự
Chỉ bạng lan can khán thúy vi
(Xuân Cảnh)
Tiếng chim thưa hoa liễu đầy cành
Chiều dọi thềm hoa mây thoáng nhanh
Khách đến chuyện đời không hỏi tới
Chỉ bao lơn tựa ngắm trời xanh
(Cảnh Xuân)
oOo
Ngoài những vần thơ xuân biểu hiện cảm xúc về thiên nhiên, gia đình, đất nước, thân phận con người trong xã hội, ta thấy một số nhà thơ Trung Hoa có khuynh hướng Lão Trang khi diễn đạt tư tưởng về cuộc sống nhàn dật, phóng khoáng của mình, coi đời như là mộng, nên muốn tận hưởng các thú vui xuân như uống rượu, ngâm thơ, xem hoa, ngắm trăng, hoặc lãng mạn hơn, chiêm ngưỡng giai nhân, hay triết lý hơn, sống lãng quên đời, như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên...
Khác với họ, các thi gia Việt muốn hiển dương thiền đạo, trong khi hội nhập vào cuộc vận hành của thiên nhiên, quán triệt lẽ vô thường của vạn vật, xem sự hưng thịnh, suy vong, sống, chết là một nhất thể, hay là một diễn biến liên tục của đời người từ cõi trần qua một cảnh giới khác (sinh ký tử qui : sống gởi thác về), như trong thơ của các thiền sư Giác Hải, Mãn Giác, Vạn Hạnh, vua Trần Nhân Tôn (cũng là thiền sư về sau)...
Mùa xuân được diễn tả thật đa dạng với những lời thơ tuyệt diệu, hình ảnh, ý tưởng tân kỳ của những thi tài bất hủ Hoa-Việt, dù có tính chất lạc quan hay bi quan.
Ta không khỏi cảm xúc nhiều khi ngâm ngợi những vần thơ đẹp ấy, bên cốc rượu ngọt hay tách trà hương mỗi độ xuân về, tết đến, nhất là khi ở quê người bắt gặp những dòng thơ mang đầy tâm sự của kẻ tha hương./.
Linh Thảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét