Tết hay ngày đầu năm của vùng châu Á chịu ảnh hưởng văn hoá
Trung Hoa là một ngày lễ mà mọi người Việt Nam đều cử hành vô cùng trọng thể…
Tết vừa theo sự vận hành của cả mặt trời lẫn mặt trăng. Nó mở
đầu mùa xuân và như vậy bao giờ cũng rơi vào hạ tuần tháng Giêng dương lịch và
trung tuần tháng Hai dương lịch.
Tết là từ chữ Tiết - Tiết Nguyên đán - “những buổi rạng đông
của sự khởi đầu”…
Sáng hôm đó là buổi sang linh thiêng nhất. Nó là điềm báo
trước các sự kiện tốt lành của các tháng âm lịch tiếp theo.
Và tất cả các cử chỉ ta làm trong những giờ đầu tiên này đều
có hiệu lực của một đạo bùa quý báu…
Người ta thổi ống tiêu để đoán tính chất điều kiện, khí hậu
trong năm; người ta uống rượu để xua đi các hơi lạnh và tử khí; người ta đốt
vàng mã để xua đuổi hiểm hoạ binh đao; người ta giặt quần áo để tránh mọi tật bệnh
và sự khốn khổ v.v…
Trong các công sở người ta cất triện vào hòm khoá, và sự giải
quyết việc công được ngừng ngay từ hôm 25 tháng Chạp, và chỉ tiếp tục lại một
cách long trọng vào ngày 25 tháng Giêng âm lịch…
Chẳng biến cố nào của thế giới bên ngoài có thể cướp đi ở kẻ
nghèo nhất cũng như người giàu nhất niềm vui ở trong lòng này và sự thoả mãn được
ăn Tết một cách xứng đáng trước bàn thờ thần linh trong nhà hoặc giữa những người
cùng xứ sở…
Cả nước bị cuốn hút vào một tình cảm đồng tâm nhất trí bởi một
sức mạnh vô hình đến nỗi đức vua vĩ đại Quang Trung, vào năm 1789 nổi tiếng ấy,
để tập kích bất ngờ quân nhà Thanh đóng ở Thăng Long vào giữa những ngày lễ hội
truyền thống, đã phải cho binh sĩ mình ăn Tết trước mấy ngày, trước khi tiến
quân đánh chiếm lại xứ Bắc…
Việc chuẩn bị cho Tết bất đầu ngay hôm sau ngày cúng thần bếp,
ngày 23 tháng Chạp.
Hôm đó, Táo quân, thần trông coi đời sống của gia đình mà
ngài che chở và giám sát, lên trời để tâu trình tỉ mỉ với Ngọc Hoàng về cách ăn
ở của mọi người trong gia đình năm qua…
Thổ công được trình bày trên bàn thờ bằng một cặp vợ chồng,
còn Táo quân là một bộ ba gồm một thần nữ có hai thần nam kèm bên…
Mọi người tìm cách lấy lòng các vị đó bằng cách cúng các vị
một bữa cỗ lớn.
Người ta đốt cho các vị thần những chiếc mũ tuyệt đẹp trang
điểm hoa sặc sỡ, nhiều thoi vàng và bạc bằng hàng mã.
Người ta thả xuống con sông gần nhất những con cá chép dùng
làm ngựa cho các thần đó cưỡi trên chặng đường mây dài từ đất lên trời…
Cuộc khởi hành của các thần bếp phát tín hiệu cho mọi người
chuẩn bị Tết.
Ai cũng tìm cách bán tất cả các hàng hoá họ có thể bán để
trang trải dứt khoát các khoản nợ…
Bởi thế, tháng Chạp âm lịch là thời kỳ hoạt động kinh tế khẩn
trương. Việc mua bán phát triển một cách lạ thường ở tất cả các chợ trong nước…
Trong ngày Tết người ta cố gắng để ăn no nê hơn bình thường.
Hơn nữa, đấy là thời kỳ trao đổi quà biếu: kẻ dưới biếu xén
người trên, ông lớn ban cho kẻ thuộc hạ, người ngang hàng gửi cho nhau kẹo mứt;
ai nấy đều coi là vinh dự việc chi tiêu hào phóng và biếu xén bạn bè thân thích
cái để “ăn Tết” và cúng tổ tiên cho tươm tất…
Phố phường có dáng vẻ rất nhộn nhịp và rất đẹp mắt. Góc nhỏ
nhất cũng bị những người bán hoa, cây xanh, tranh dân gian, thực phẩm v.v…chiếm
mất.
Người ta tranh nhau trả giá cao nhất củ thuỷ tiên nở bông
hoa đầu tiên đúng trong đêm giao thừa, cái cây trĩu quả đỏ, cành đào hoặc hải
đường với vô số nụ hồng hay đỏ v.v…
Bên trong mỗi ngôi nhà cần phải có bầu không khí nhuốm màu sắc
rực rỡ là biểu tượng của hạnh phúc, điềm báo trước những sự kiện tốt lành và những
lá bùa có thể xua đuổi ma quỷ cùng các ảnh hưởng độc hại…
Các ông đồ nghèo trong mười ngày trước Tết thuê góc các mặt
cửa hàng hay góc một phố để bán những băng giấy đỏ, đôi khi rắc phấn vàng hay bạc…
Họ cũng thường viết trên mảnh giấy người ta đưa để lấy một
khoản tiền nhỏ.
Nếu trong năm, trong gia đình có người chết thì người ta
dùng giấy màu vàng hay xanh…
Giống như xưa kia, những ông đồ nghèo khốn khổ run rẩy trong
tấm áo bông dài, ngồi xổm trên chiếu, đang bán những chữ Hán cuối cùng của họ,
những chữ mà đối với nhiều người đã trở nên câm lặng, không nói lên một điều gì
nữa…
Bên cạnh những câu đối, người ta còn dán lên cửa những mảnh
giấy điều đơn giản hình chữ nhật và dán lên các cánh cửa hình vẽ các ông thần
có bộ mặt gớm ghiếc xua đuổi lũ ma quỷ tai ác hại người, những vị thần vẻ mặt
hiền từ cầm hoa quả tượng trưng cho sự giàu có và vinh hiển, những tranh lợn hoặc
tranh gà mẹ có vô số gà con xung quanh, mang đến cho gia đình điềm báo trước một
sự phồn vinh hiếm có và đông con cháu…
Người ta cho rửa đồ thờ bằng gỗ, đánh bóng lại đồ thờ bằng đồng
hay thiếc.
Người ta cho thay tro của bát hương, cắm nến mới vào cây đèn
nến, lau chỗ trong cùng của cây nến, rửa bài vị bằng nước rễ cây thơm v.v…
Trong bếp, người ta thay các viên gạch dùng làm kiềng và vứt
xuống con song gần đó…
Người ta kho mắm hay kho tương những nồi thức ăn truyền thống
như cá, thịt bò, thịt lợn béo. Người ta muối hành hay dưa trước một tháng.
Người ta mua hoặc gói lấy những chiếc bánh chưng vuông vức
theo hình quả đất được quan niệm là vuông, gồm một lớp ngoài gạo nếp dầy, bên
trong có đỗ giã nhỏ bọc những miếng thịt lợn mỡ…
Tất cả những sự chuẩn bị lâu dài và tỉ mỉ này kết thúc bằng
việc dựng cây nêu.
Đây là một cây tre dài năm sáu mét, được tước hết các cành,
nhưng để lại ở ngọn những cụm lá hay buộc vào đó một túm lông gà trống, một mớ
lá đa hay lá cây vạn niên thanh.
Gần đỉnh treo một cái vòng tre có buộc những con cá nhỏ, những
chiéc chuông con và khánh bằng đất sét nung phát ra một âm thanh nhẹ và êm khi
gió thổi.
Dưới cái vòng này có buộc một cái mũ thần, những thoi vàng bằng
giấy, những miếng trầu, lá dứa hoặc cành xương rồng gai. Ở đèn còn treo một cái
đèn thắp ban đêm…
Trong nhiều nhà, người ta dùng vôi trắng vạch lên mặt đất, ở
cổng vào, trong sân hay trên các mặt tường ngoài, hình những cây cung giương
lên, chĩa mũi tên về mọi hướng.
Bằng cách đó làm một hàng rào tên bắn thần kỳ ngăn ma quỷ tiến
vào nhà.
Bên cạnh những cây cung này, người ta còn vẽ những bàn cờ, để
nói với thế giới vô hình rằng đấy là nơi ở linh thiêng của các thần tiên…
Đâu đâu cũng có những người bán tranh dân gian có giá trị
giáo dục lớn. bằng những nét vẽ vụng về và ngây thơ, bôi màu sặc sỡ, những bức
tranh này diễn tả sinh hoạt thật là bận rộn của đồng ruộng, lớp học sôi động của
thầy đồ cóc, đám rước vinh quy bái tổ của ông nghè chuột, theo sau là phu nhân
chuột ngồi trong kiệu, tay cầm quạt…
Dù thế nào đi nữa, mỗi đứa trẻ cũng nhận được một số ít nhiều
tờ giấy nhiều màu sắc đó để dán lên vách nhà tranh bên cạnh giường nó nằm, hay
xung quanh căn buồng học của nó.
Người ta thêm cho nó vài bánh pháo và bánh ngọt. Người ta lấy
ra cho nó những áo quần đẹp mà nó chỉ có quyền mặc những ngày Tết, để rồi lại
được cất suốt cả năm…
Trẻ con các nhà nghèo chẳng có gì ăn Tết thì đi quyên từ nhà
nọ sang nhà kia trong đêm cuối cùng của tháng Chạp trước giờ giao thừa…
Chúng gõ xuống đất một ống tre dài từ 1 đến 1,5m, trong đó
chúng bỏ mấy đồng xu để phát ra một âm thanh gợi lên sự giàu có.
Chúng đồng thanh cất tiếng hát bài ca cổ tả chủ nhân ngôi
nhà như chủ một gia đình giàu có và vinh hiển.
Người nào cũng đưa qua lỗ cửa cho chúng vài xu… Các cửa được
đóng lúc sẩm tối… Người chủ mặc lễ phục đứng trước bàn thờ tổ tiên để thỉnh các
vị về ăn Tết cùng con cháu.
Và người ta thức sau bữa ăn tối để chờ năm cũ nhường chỗ cho
năm mới.
Người lớn quay quần điểm lại mọi sự kiện của quá khứ và rút
ra những bài học cho tương lai.
Bọn trẻ cũng không ngủ.
Chúng chờ năm mới đến chỉ để xem người lớn đón các thần mới
như thế nào và người cha trong gia đình rút ra các bánh pháo quý báu đang nằm đó
trong tầm mắt đầy thèm thuồng của chúng…
Quá nửa đêm, người ta kê một cái bàn ở giữa sân cúng Thượng
đế cùng Táo quân sắp từ trời trở về…
Người ta đặt trước các mũ thần bằng giấy nhiều màu những đĩa
kẹo, những chén trà, rượu, hương, nến v.v…
Ở nhiều nhà người ta bày lên bàn thờ một con gà trống mà
chân gà sẽ nói cho chủ nhân biết, nhờ sự giải thích của các thầy cúng và thầy
bói, điều ông ta phải chờ đợi trong năm đang bắt đầu…
Chủ nhà quỳ lạy trước bàn thờ này và cũng lạy cả bốn phương
trời, để cầu xin ân huệ của tất cả các thần trên thế giới.
Bàn thờ tổ tiên cũng được thắp đèn sáng và kẹo bánh được
dâng cúng giữa khói hương dày đặc.
Những nghi lễ hoàn toàn có tính gia đình này được đánh dấu bằng
tiếng nổ đinh tai của những tràng pháo dài.
Và trong nhiều giờ, từ 11 giờ đêm tới 2,3 giờ sang, cả thành
phố và nông thôn dường như phải nghe một tràng tiếng nổ không dứt…
Đêm giao thừa này còn được đánh dấu bằng những cuộc đi lễ đền
chùa…
Ở tất cả các đền chùa này nghi ngút đèn hương, mọi người cả
già lẫn trẻ đến dâng lên chư Phật cùng những thần linh khác những lời cầu nguyện
đầu tiên…
Sau khi đi thăm các đền chùa trở về và coi là đã thấm nhuần
ân huệ của các thần, người ta vững tâm xông đất nhà mình.
Vì ai cũng muốn yên trí rằng người đầu tiên bước vào nhà
mình là người đem theo những dấu hiệu tốt lành.
Nếu chẳng có ai tốt hơn thì không ai chắc chắn bằng chính
mình là người có khước, từ chỗ của thần thánh trở về nhà, mang về từ đó một nén
hương đốt sẵn để cắm lên bàn thờ tổ tiên.
Sau lễ giao thừa mọi người đều đi ngủ. Hôm sau người ta cũng
chẳng dậy muộn.
Người ta phải rửa ráy khá sớm để trông nom việc làm cơm cúng
tổ tiên.
Rồi sau đó mọi người mặc quần áo đẹp nhất để đón người khách
đầu tiên…
Người ta luôn luôn thu xếp để người này là kẻ mang điềm tốt
đến…
Đường sá chỉ bắt đầu đông người vào quãng 10 giờ… Tất cả đều
đến nhà họ hàng, bạn bè để chúc mừng năm mới…
Nhưng trước lúc đi chúc Tết các nơi, người con trưởng có tất
cả các em theo sau, chúc Tết cha mẹ.
Trong dịp đó, cha mẹ mừng tuổi cho mỗi con một số tiền nhỏ
và những quả cam để làm khước…
Ngay khi mở cửa đón những người khách đầu tiên thì hành khất
đã đứng đó chúc gia đình bạn một năm mới tốt lành.
Những thầy đồ nghèo đưa cho gia đình bạn những những mảnh giấy
điều nhỏ trên đó ghi những lời chúc gia đình thịnh vượng.
Người buôn bán thì thì mang đến gia đình những gánh nước coi
như điềm báo sự giàu có vô cùng.
Những nhóm xẩm hát cho gia đình nghe những bài ca báo cho bạn
và gia đình một đời sống êm ả.
Bạn phải thưởng cho những người ấy một ít tiền, cả với trẻ
con mà mình sẽ gặp tại các nhà họ hàng hay bè bạn mà mình đến thăm…
Ngay vào buổi sáng đầu tiên này, học trò đến nhà thầy chúc
thầy sống lâu.
Thầy cho học trò những mảnh giấy hoa tiên màu hồng và bút
lông đẹp đẽ để họ viết những điềm báo trước cho cả năm…
Mọi người chọn giờ xuất hành và hướng phải đi đầu tiên để có
thể gặp trên đường các thần tài, thần lộc.
Mọi người tránh nói các điều gở, vì sợ trong cả năm sẽ chịu ảnh
hưởng tai hại.
Mọi người còn kiêng quét nhà đầu năm, vì sợ tài lộc sẽ cùng
với rác rưởi rời khỏi nhà…
Những trang miêu tả theo phương thức khảo tả dân tộc học còn
rất tỉ mỉ, chi tiết.
Điều mà tôi chưa thấy ai trước đó (năm 1941) có những miêu tả
chi tiết và sống động như vậy.
Có thể hình dung thêm một cách ấn tượng hơn qua hai bài thơ
"Phiên chợ Tết" của Đoàn Văn Cừ và "Ông đồ: của Vũ Đình Liên mà
hầu như nhiều người trong chúng ta đều chưa quên.