Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2014

Bánh phu thê ở đất vua Đình Bảng


  
Bánh phu thê Đình Bảng - nơi phát tích của vương triều nhà Lý - được dùng trong những đám hỏi, đám sêu, đám cưới, những bữa cỗ trang trọng. Nó cũng từng được làm đồ tiến vua, vào tận kinh đô Huế.
                                 Đình làng Đình Bảng 
Nhà vua Lý Công Uẩn - Lý Thái tổ chính là một người con của làng Cổ Pháp, nay là Đình Bảng, chỉ cách Hà Nội về phía bắc nửa giờ xe chạy. Có lẽ vị vua ấy không ngờ rằng sau đó, quê hương mình còn nổi tiếng về một món ăn được đi vào nghi lễ, đó là bánh phu thê (xu xê), tức bánh vợ chồng.

Bánh mang tên phu thê nên không đi lẻ một chiếc, mà đơn vị đếm là cặp. Ngoài lớp lá chuối đã luộc là lá chuối tươi, có sợi lạt cánh sen buộc chữ thập. Khác hẳn các loại bánh khác như bánh chưng, bánh giò, bánh nếp, bánh khoai sọ..., một cái là bình thường. Bánh phu thê có vợ có chồng, cái duyên thắm thiết, nói như một câu trong lễ cưới: "Chỉ cái chết mới chia lìa được hai người".

Làng Đình Bảng nằm ngay cạnh đường số một từ Bắc Ninh về Hà Nội, thuộc đất Kinh Bắc xa xưa. Đất này cũng là cái nôi văn hoá, quê hương của quan họ trữ tình, có sông Cầu, sông Đường, có Tích Giang, Tiêu Tương, có chùa Tiêu Sơn, chùa Phật Tích, chùa Bách Môn... nổi tiếng. Đây cũng là quê hương của cô gái tựa vào cây lan bất chấp lệnh vua cấm, để rồi trở thành nguyên phi, hoàng hậu, hoàng thái hậu, chấp chính cả vương quyền...
Buổi sáng từ Hà Nội đi lên phía bắc, hay buổi chiều đi ngược hoàng hôn từ phía bắc về Hà Nội, du khách sẽ thấy dọc hai bên đường có những người phụ nữ ngồi bên chiếc bàn thấp, bày một thứ hàng nho nhỏ, từng chồng, cặp lá xanh mướt, lạt đỏ tươi, bên trên có khi còn phủ một miếng vải ướt để bánh khỏi khô, lá khỏi héo. Đấy chính là bánh phu thê Đình Bảng, ngay sát bến sông Tiêu Tương, ngay cạnh Đồi Lim, ngay bìa làng Nội Duệ, ngay phủ Từ Sơn... Xe qua, người bán hàng vẫy vẫy bàn tay như mời như gọi thân tình.
Bóc một chiếc bánh phu thê, bỏ đi màu lá chuối tươi, thứ lá chuối bãi sông cũng dùng để gói bánh cốm, ta gặp vuông bánh màu vàng tươi, óng ánh. Cứ tưởng như sau khi nằm mệt mê trong lá kín, bây giờ gặp ánh sáng, nó tươi lên với màu da được đón khí trời tươi mởn. Cũng chỉ là bột nếp thật mịn, đỗ xanh thổi chín, giã nhuyễn, ngào đường, nhưng bánh phu thê khác hẳn các loại bánh bột nếp khác. Nó không bao giờ là bánh mặn, mà ngọt thanh hay ngọt sắc tùy theo khách đặt, nhân thêm dừa hay chỉ đỗ không, nhiều hay ít hương dầu chuối cũng được theo yêu cầu... Chiếc bánh phu thê thường to hơn bánh cốm.
                  Bánh Phu Thê xưa từng là món tiến vua
Bánh phu thê không lẫn với bất cứ thứ bánh nào bởi màu vàng của nó. Bánh gai màu đen, bánh gấc màu đỏ, bánh chưng màu xanh, bánh giò màu trắng..., còn bánh phu thê có màu vàng chanh tươi, màu của quả dành dành đã chín theo truyền thống. Theo truyền thuyết, từ thời nhà sư Vạn Hạnh, cha nuôi của vua Lý Thái Tổ, người Đình Bảng đã biết lấy màu dân dã làm ra màu bánh.

Đến nay, quả dành dành vẫn được thồ từng bao từng tạ từ khắp vùng về Đình Bảng, cung cấp cho hàng trăm nhà làm bánh. Không nhà nào dùng phẩm màu hoá chất thay thế cho thứ quả lành mọc hoang bên hàng rào, cạnh bờ ao, vốn đã quen thuộc với nhiều làng quê Việt Nam.
Ngồi dưới bóng hàng bạch đàn, bóng đa hay bóng muỗm đang lớn ở đền Đô, nơi thờ tám vị vua nhà Lý (riêng vua thứ chín là Lý Chiêu Hoàng được thờ riêng, vì bà bị cho là thủ phạm để nhà Lý dứt ngôi), khách sẽ thấy cả chục  hàng bán bánh phu thê mời mọc. Bóc một chiếc ra ăn, nếu bánh mới, còn nóng, vừa luộc trong ngày thì hơi nát, khó nhai, nếu cứng thì đó là bánh đã vài ba ngày. Ngon nhất là bánh làm hôm trước, sau một ngày đêm, vừa dẻo vừa mềm, vừa giòn vừa không dính lá.

Bánh làm bằng bột nếp mà vẫn có độ giòn, không dính bởi được pha đu đủ xanh nạo thật nhỏ, vắt thật kiệt, kỹ càng hơn thứ đu đủ làm nộm ở thành phố. Tuỳ theo tay nghề mà thứ gia vị này được gia giảm ít hay nhiều, từ năm đến mười phần trăm hay hơn nữa.
Đường làng Đình Bảng vào dịp Tết chật cứng xe cộ vì người Hà Nội về lấy bánh đã thửa từ trước. Một trong những "thương hiệu" được tín nhiệm nhất hiện nay là nhà bà Lụa. Bà không làm nhiều vì ít người, con cái trưởng thành đi làm ăn xa, theo đuổi nghề khác. Đến bà là đã ba đời làm bánh, cô con gái út là đời thứ tư. Người ta hay gọi bà là bà Lụa Xuân, hay Lụa Nhượng, ghép tên bà với tên con gái hoặc tên chồng bà cho dễ nhớ.

Vườn nhà bà có cây nhót leo giàn, cây ổi cổ thụ, gian gác thượng mái bằng để phơi quả dành dành, có cả máy giặt, không phải để giặt mà để ép, vắt đu đủ cho vào bánh. Người con gái xuân sắc một thời của Đình Bảng nay đã 70 mùa làm bánh phu thê, tóc hoa râm nhưng nét cười tươi như bông hoa dành dành nở trắng. Bóc bánh mời khách, bà tiếc rằng nhà không còn nhiều bánh để bán đủ cho khách, xin khất đến Tết vậy. . .
                    Bánh Phu Thê thường đi từng cặp
Bánh phu thê đang là một đặc sản được ưa chuộng, ăn nó không bị ngán vì ngọt quá, cũng không cần ăn nhiều, chỉ một phần tám cặp, hay một phần tư chiếc sau bừa cỗ là đủ .Hà Nội cũng có nhiều nhà làm bánh phu thê, nhiều địa phương khác cũng có. Nhưng nổi bật lên là Đình Bảng, vì giữ được nét chân chất, mang được truyền thống tinh mà lành, ngon mà mát, đẹp mà không đắt, lại tiện đường du khách, gần thủ đô, xuôi nam ngược bắc cũng dễ dàng...
Nếu làm chuyến du hành một ngày lên Kinh Bắc, có thể đến Thổ Hà làm gốm, Vạn Vân nấu rượu, bến Quế Võ Phả Lại, huyện Thuận Thành quê hương Ỷ Lan... rồi ghé Đình Bảng mua ít cặp bánh phu thê mang về Hà Nội làm quà, thật đẹp, thật tiện... Một danh thắng của cả nước, ghi nghìn năm lịch sử với đền thờ tám vị vua nhà Lý, lại có thêm món bánh cổ truyền nổi tiếng. Đình Bảng nườm nượp khách hành hương có lẽ một phần vì thế chăng?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét