Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2014
Kiến trúc đình làng đình bảng
Giới thiệu đối tượng nghiên cứu
Địa điểm
Đình Bảng nằm trên vùng châu thổ sông Hồng. Trải dọc theo trục đường
quốc lộ 1 A, cách Thủ đô Hà Nội 16 km về phía Bắc. Làng Đình Bảng là một
xã, có mười lăm xóm họp lại thành một làng, cả làng thành một xã.
Theo chiều dài lịch sử, Đình Bảng là một làng trù phú, kinh tế văn hoá
phát triển, thuận lợi giao thông thủy và bộ. Nằm ở vị trí tiếp giáp, nối
liền miền đồi núi Đông Bắc với đồng bằng phía Nam cho nên Đình Bảng là
nơi hội tụ và đón nhận, ảnh hưởng cả phương Bắc, phương Nam, phía Đông
và phía Tây. Đúng như nhận định của giáo sư Trần Quốc Vượng: "Đình Bảng
không bao giờ là một trung tâm hành chính chính trị đế chịu sự đánh phá
chà xát và xáo động, cùng di động dân như Cổ Loa cũng như nhận sự áp chế
trực tiếp và đồng hoá nặng nề như vùng Luy Lâu. Nhưng Đình Bảng lại gần
Cổ Loa cũng như gần Luy Lâu (hay phủ Từ Sơn ngay sau đó) để không bao
giờ là một vùng quê hẻo lánh, xa xôi - Đình Bảng không bao giờ có thành
nhưng bao giờ cũng có thị. Đó là một làng chợ, hương thị, xã thị (chứ
không là thị xã). Đình Bảng và vùng chung quanh bao giờ cũng là vùng đất
hướng ngoại, vùng mở, vùng giao lưu kinh tế văn hoá sống động và nãng
động ,một vùng tiến bộ văn hoá -xã hội, vùng đan xen kinh tế điển hình"
(Hội nghị chuyên đề về Vương Triều Lý 1-7- 1985).
Đình Đình Bảng (xưa kia còn có tên nôm là đình Báng, do có cây Báng mọc
thành rừng) nằm giữa một thiên nhiên đẹp, xung quanh có nhiều hồ ao là
dấu tích của sông Tiêu Tương. Hiện nay đình thuộc làng Đình Bảng, huyện
Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. quyết định số 313/QĐ ngày 28/04/1962. Vùng địa
linh này là quê hương Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ), người lập ra triều
Lý và khai sáng kinh đô Thăng Long (năm 1010).
Từ lâu, trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam, mỗi khi nói về làng
xã không ai quên nhắc tới ngôi đình làng, bởi đó là sự kết tinh trí
tuệ, công sức, sự thịnh vượng của làng xã, niềm kiêu hãnh của làng xã,
nơi chứng kiến và diễn ra các hoạt động lớn nhỏ của cả làng... là nơi
các chàng trai, cô gái gửi gắm, bầy tỏ tâm tình.
Niên đại, lịch sử hình thành và phát triển
Đình làng Đình Bảng là một ngôi đình cổ kính nổi tiếng nhất của đất Kinh
Bắc, được xây dựng năm 1700 và đến năm 1736 mới được hoàn thành, do
công đầu của quan Nguyễn Thạc Lượng, người Đình Bảng và bà vợ đảm đang
Nguyễn Thị Nguyên quê ở Thanh Hóa đã mua gỗ lim về dâng làng xây dựng,
ngôi đình có thế trường tồn .Nay ngôi nhà cổ của ông Nguyễn Thạc Lượng
cho dựng thử trước khi cho dựng Đình Bảng vẫn còn và được gìn giữ bảo
tồn.
Đình Đình Bảng gắn bó với nhiều sự kiện lịch sử qua hai cuộc chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đình cũng đã nhiều lần vinh dự được đón
Bác Hồ về thăm. Đình Đình Bảng được Nhà nước công nhận là di tích kiến
trúc nghệ thuật theo quyết định số 313/QĐ ngày 28/04/1962.
1.3 Mục đích xây dựng, chức năng sử dụng
Từ lâu, trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam, mỗi khi nói về làng
xã không ai quên nhắc tới ngôi đình làng, bởi đó là sự kết tinh trí tuệ,
công sức, sự thịnh vượng của làng xã, niềm kiêu hãnh của làng xã, nơi
chứng kiến và diễn ra các hoạt động lớn nhỏ của cả làng... là nơi các
chàng trai, cô gái gửi gắm, bầy tỏ tâm tình.
"Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu"
Đình Bảng có cả cụm di tích văn hóa, nhất là những di tích về thời Lý,
tạo thành một khu lưu niệm độc đáo, âm vang lịch sử, có tầm cỡ quốc gia,
đủ cả: Đình, Đền, Chùa, Lăng, Tẩm .... đặc trưng của văn hóa làng Việt
Nam. Đây là nơi hội tụ văn hoá tín ngưỡng, nguyên trước Đình thờ 3 vị
nhiên thần: Cao Sơn đại vương (Thần Đất), Thuỷ Bá đại vương (Thần Nước)
và Bạch Lệ đại vương (Thần Trồng Trọt), là các vị thần được cư dân nông
nghiệp tôn thờ, cầu mong mưa thuận gió hoà cho mùa màng tươi tốt. Hàng
năm vào tháng 12 âm lịch nhân dân lại mở hội cầu khẩn cho một năm mùa
màng bội thu. Cũng tại đình làng nhân dân còn thờ Lục Tổ (6 vị có công
lập lại làng vào thế kỷ XV). Sau này khi đền Lý Bát Đế bị thực dân Pháp
phá năm 1948, nhân dân đã tiếp nhận bài vị của tám vị vua triều Lý về
thờ tại Đình Bảng.
Đặc điểm kiến trúc
Sơ đồ kiến trúc Đình Bảng. Sơ đồ chi tiết bộ vỉ và hệ mái của đình
Bảng.
Kiến trúc của đình bao gồm Đại đình - ống muống - hậu cung được liên kết
với nhau theo kiểu liên kết mái. Trong đó Đại đình có những nét đáng
chú ý về nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật trang trí.
Cũng như nhiều đình làng Việt Nam dựng vào cuối thế kỷ XVII đầu XVIII,
đình Đình Bảng có lối kiến trúc bề thế, mái dài và cao, các đầu đao được
uốn cong vút. Toà Đại đình mái lớn và rộng, chiếm hơn 2/3 chiều cao
toàn thể ngôi đình. Diện tích mái rộng, lợp ngói mũi hài dầy bản, rộng
khổ, tạo một không gian rộng trong lòng đình. Đình có các tàu mái uốn
cong nhẹ nhàng, đoạn cuối uốn cong vút tạo thành bốn góc đao đồ sộ. Toà
Đại đình được xây trên nền cao hai bậc cấp đá xanh bó xung quanh rất bề
thế và vững chãi. Bốn mặt đều được bưng kín bằng ván đố lụa, tháo mở dễ
dàng. Do đó không gian sử dụng của đình làng không chỉ hạn hẹp trong
lòng kiến trúc mà rộng thoáng khắp bốn xung quanh, hài hoà với không
gian tự nhiên.Các gian bên của Đại đình đều có sàn ván gỗ. Phần lớn các
đình làng Việt Nam nay đã bị mất hết ván sàn, dấu vết của ván sàn nay
chỉ còn là các mộng ở phần chân cột. Đình Đình Bảng là một trong số ít
đình vẫn còn giữ lại được hệ thống sàn gỗ. Hệ thống sàn đình chủ yếu
phục vụ cho việc ngồi họp của dân làng nên mang nặng tính chất sạp. Sau
này khi đình làng bị chính quyền quân chủ chi phối mạnh mẽ thì sàn đình
trở nên hợp với việc phân định “chiếu trên - chiếu dưới”- những thứ bậc
muôn thuở của làng xã Việt Nam. Đại đình gồm có 6 bộ vì được liên kết
với nhau qua hệ thống xà dọc bởi vậy đình bao gồm 5 gian chính, ngoài ra
để mở rộng thêm lòng công trình người ta đã đặt thêm 2 bộ vì lửng ở hai
bên tạo nên 2 gian hồi và 2 chái lớn. Trên xà đùi nối giữa cột cái và
cột quân ở 2 gian hồi người ta đặt cột trốn để đỡ vì. Vì này được làm
theo kiểu chồng rường và được chạm khắc hình rồng, hình mây. Đại đình
gồm 6 hàng chân cột, có 60 chiếc cột, các cột đều được dựng trên những
chân tảng đá xanh vuông vức, nhẵn bóng. Tất cả sức nặng của công trình
đều được phân tán qua cột xuống các chân tảng lớn bằng đá đặt trên nền
đình. Tất cả các cột đều được làm bằng gỗ lim chắc chắn.
Hệ thống cột và sàn gỗ trong đình
Trong kiến trúc gỗ cổ truyền Việt, sự vững trãi của công trình là nhờ
vào khung kết cấu với những mối liên kết, các mộng, chịu sức nặng của
toàn bộ mái đè xuống. Hệ khung liên kết bằng gỗ trở thành yếu tố quan
trọng nhất quyết định sự tồn tại của công trình kiến trúc. Trong đó bộ
vì là yếu tố cơ bản của kết cấu khung gỗ, nó liên kết tất cả các cấu
kiện, vừa là kết cấu chịu lực, nâng đỡ mái, vừa là đơn vị cấu thành tổ
chức không gian của đình. Các vì kèo được cấu trúc theo lối chồng rường
“thượng tam hạ tứ”. Bộ vì nóc được làm theo kiểu chồng rường. Trên đầu
hai cột cái là một câu đầu to khoẻ được đỡ bởi hai đầu dư. Trên câu đầu
và hai trụ trốn đỡ hai con rường chồng lên nhau qua hai đấu vuông thót
đáy, trên cùng là một đấu đỡ thượng lương. Chạy xung quanh lòng toà Đại
đình là ba hàng xà kép: xà hạ, xà trung, xà thượng. Từ Đại đình có cửa
nách qua ống muống và hậu cung. Hậu cung có ba gian, hệ khung kết cấu
đơn giản với bộ vì nóc được làm theo kiểu cốn chồng rường, vì nách được
chạm chổ đơn giản. Hai đầu hồi hậu cung được xây tường cao bít đốc.
1.4.1 Cách thức tổ chức mặt bằng
mặt bằng Đình Bảng
Đình được xây dựng trên một bãi cao, mặt hướng nam trông thẳng ra một
chiếc ao rộng.
1.4.2 Cách thức tổ chức mặt đứng
mặt đứng, mặt bên, mặt bằng Đình Bảng
1.4.3 Hệ kết cấu
Đình Đình Bảng là hình ảnh độc đáo của kiến trúc dân tộc, giữ được hình
ảnh toàn vẹn kiểu thức nhà sàn dân tộc được áp dụng cho kiến trúc đình
làng. Nhìn lại lịch sử từ buổi đầu dựng nước, hình ảnh ngôi nhà sàn còn
in giữ trên các trống đồng Đông Sơn - Một sáng tạo của cha ông ta trong
lĩnh vực kiến trúc nhà ở. Không thể đem ngôi đình đồ sộ sau mấy mươi thế
kỷ đem so sánh với những nhà sàn trên trống đồng Đông Sơn nhưng phải
nhận thấy cả hai mẫu hình này có phong thái thống nhất, cóBộ khung Đình
Bảng sự kế thừa và phát triển truyền thống kiến trúc được xác lập từ
buổi đầu dựng nướcĐình Bảng là một công trình kiến trúc quy mô, nguyên
trước có cả tam quan, cửa giữa xây hai trụ gạch kiểu lồng đèn cao, hai
bên có cửa cuốn tò vò giả mái, phía sau là khoảng sân rộng, hai bên là
hai dãy tả vu và hữu vu. Cũng như mọi ngôi đình khác, công trình quan
trọng nhất của Đình Đình Bảng về mặt kiến trúc nghệ thuật là toà Bái
Đường (Đại Đình).
Bái Đường của đình có hình chữ nhật, dài 20m, rộng 14m chia làm bảy
gian, hai chái nằm trên nền cao bó đá xanh có hai bậc cấp. Vẻ đồ sộ của
đình thể hiện qua phần mái toả rộng chiếm 2/3 chiều cao tổng thể và 6
hàng, khoảng 60 cột lim lớn nhỏ có đường kính từ 0,55- 0,65 mét được đặt
trên các tảng đá xanh vuông vức.
Vẻ độc đáo của ngôi đình thể hiện ở sự tỏa rộng trong không gian của mái
đình, sự đồ sộ của những đầu đao, khả năng thích nghi với khí hậu, và
sự sung mãn về trang trí, điêu khắc.
Đình Bảng có kết cấu hệ kèo chồng rường, gồm bảy gian hai chái (gian
phụ). Đình cao tới 8 mét với tỷ lệ mặt đứng của phần mái lớn hơn phần
thân (mái chiếm hai phần ba chiều cao của đình) cho cảm giác bề thế.
Đình lợp ngói mũi hài và có các đầu đao vươn xa nhất trong các các công
trình kiến trúc gỗ cổ truyền tại Việt Nam. Đình có cửa bức bàn bao
quanh.
1.4.4 Cách thức sử dụng vật liệu
Mỗi làng quê Việt Nam đều có một ngôi đình. Như là một ngôi nhà công
cộng của làng quê thời xưa,Đình được dùng làm nơi thờ Thành Hoàng làng
(vị thần bảo trợ của làng) và họp việc làng Đó là một ngôi nhà to, rộng
được dựng bằng những cột lim tròn to thẳng tắp đặt trên những hòn đá
tảng lớn. Vì, kèo, xà ngang , xà dọc của đình cũng làm toàn bằng gỗ lim.
Tường đình xây bằng gạch. Mái đình lợp ngói mũi hài, bốn góc có bốn đầu
đao cong. Vào mỗi dịp lễ, Tết, đình trở thành trung tâm văn hóa của
làng mà ở đó, tất cả kho tàng văn hóa tích lũy từ đời này qua đời khác
được thể hiện đầy đủ nhất.
1.4.5 Trang trí (phù điêu, tượng…), màu sắc
So với nghệ thuật kiến trúc thì nghệ thuật trang trí ở đình Đình Bảng
cũng không kém phần đặc sắc. Các thành phần kiến trúc của đình Đình Bảng
hầu hết được trang trí chạm khắc công phu thể hiện một nghệ thuật hội
họa, điêu khắc gỗ tinh vi, điêu luyện. Đồng thời có thể nói chạm khắc ở
đình Đình Bảng là mở đầu cho một phong cách chạm khắc gỗ của thế kỷ
XVIII - đầu thế kỷ XIX, với hai xu hướng: nghệ thuật dân gian và nghệ
thuật cung đình, trong đó nghệ thuật dân gian đang bị lấn át dần. Xu
hướng nghệ thuật cung đình thể hiện qua các đề tài trang trí của nghệ
thuật chính thống là tứ linh, tứ quý, đề tài triết lý tôn giáo . . . với
bố cục dày đặc, đường nét cầu kỳ, nặng về mặt hình thức công phu, hoa
mỹ. Trên 28 chiếc kẻ hiên là 28 con rồng mỗi con một vẻ rất sinh động.
Những con rồng với thân hình nhỏ nhắn,hai chân nắm hai sợi râu mép, dáng
hình ngộ nghĩnh, nét mặt như cười.
Trên khung cửa được phủ hai dải hoa văn cân đối, dưới có hai khối tượng
tròn là hai cối gỗ tra cánh cửa được nghệ nhân sáng tạo thành hai con
nghê nằm trong tư thế phục chầu nhau với thân hình tròn lẳn căng đầy sức
sống và vẻ mặt rất sinh động. Chúng ta còn bắt gặp hình tượng nghê nếu
quan sát
Điêu khắc rồng trên kẻ hiên Hình Hình tượng nghê trên cối gỗ tra cánh
cửa
tiếp ở các tác phẩm tượng tròn được tạc ở cột cái trước và sau gian bên
thứ hai phía tây nam và phía đông bắc Đại đình. Nghê có tư thế ngồi xổm,
hai chân trước chống thẳng, mình có vẩy và mây cuộn. Dưới bàn tay tài
hoa của người thợ xưa, hình tượng nghê hiện ra rất sống động, tư thế
trang nghiêm nhưng lại không hề cứng nhắc.
Các bức chạm đều mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII Đặc biệt ở gian
giữa Đại đình có bức cửa võng và bức trần gỗ. Bức cửa võng rất lớn,
chia thành bẩy lớp, chín ô theo kiểu lồng hộp, trang trí dầy đặc, chạm
trổ tinh vi với các chữ triện, chữ công, các con vật như rồng, phượng,
ngựa, sư tử, mây, hoa lá, các cây trong bộ tứ quý mang phong cách nghệ
thuật thời Nguyễn. Bức trần gỗ được trang trí một con phượng đang múa,
cánh phượng xoè rộng phủ kín bức trần, đuôi vươn dài ra các đám mây xung
quanh. Quanh phượng có sáu con long mã phi giữa nhiều lớp mây, lá sồi,
cánh sen và bát bửu mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX.
Bức ván nong chạm nổi “Bát mã quần phi”
Trên lan can phía bên trái còn có bức ván nong chạm nổi hình tám con
ngựa nối tiếp nhau theo kiểu liên hoàn “bát mã quần phi”, con quay đầu
lại, con cúi xuống nước, con nằm quay đầu lại, con ngẩng đầu lên, con
đang gặm cỏ, con đứng quay đầu lại liếm chân, con đang quì hai chân
trước, hai chân sau duỗi dài dáng phi nước kiệu. Các con ngựa ở đây đều
mập khoẻ, thân hình cân đối, dáng vẻ rất sinh động, bức chạm mang phong
cách nghệ thuật thế kỷ XVIII thể hiện xu hướng nghệ thuật dân gian, với
đề tài hiện thực, bố cục đơn giản và sinh động, đường nét, hình khối mềm
mại, tròn trặn. Bức chạm này cùng được đánh giá là có giá trị nghệ
thuật nhất của ngôi đình.
Ngoài ra trên các cấu kiện như xà kép, ván gió xà hạ, xà trung, xà
thượng, các bức cốn ở các vì nách, đầu dư ở cột cái . . . đều có chạm
khắc các hình chữ triện, rồng với các chủ đề “lưỡng long chầu nhật”,
“ngũ long tranh châu”, phượng, các con vật, hoa lá . . . rất công phu
Chạm khắc trên các cấu kiện trong đình
Đình Đình Bảng là một di tích kiến trúc gỗ còn khá nguyên vẹn từ khi
khởi dựng đến nay. Ngoài một số cấu kiện gỗ như hoành, dui, xà dọc, các
bức ván nong chạm trổ bị mối xông; kìm nóc, con xô, con giống, đầu đao
bị gãy vỡ, hiện nay đình Đình Bảng vẫn còn lưu giữ gần như nguyên vẹn
các yếu tố kiến trúc nghệ thuật gốc, trong đó phải kể đến hệ thống ván
đố lụa, trần, đặc biệt là hệ thống cột và sàn gỗ.
Trong những ngày hội xuân, đình Đình Bảng trở thành trung tâm của mọi
hoạt động văn hóa. Đình vẫn là nơi sinh hoạt văn hóa của người dân trong
cộng đồng như chức năng vốn có từ bao đời nay. Đình Đình Bảng là một di
tích kiến trúc nghệ thuật được liệt vào một trong những di tích có giá
trị nhất của xứ Kinh Bắc. Được xây dựng vào giữa thế kỷ XVIII, trong
suốt quá trình tồn tại đình Đình Bảng đã tự khẳng định được vị trí của
mình trong di sản kiến trúc Việt Nam và trong đời sống văn hoá của người
dân. Với gần ba thế kỷ tồn tại, mặc dù chịu sự huỷ hoại của thiên nhiên
và những biến cố thăng trầm của lịch sử, đình Đình Bảng hầu như vẫn còn
giữ nguyên vẹn những nét kiến trúc nghệ thuật ngày đầu, cho chúng ta
một hình ảnh trọn vẹn của một ngôi đình nửa đầu thế kỷ XVIII.
Nội thất đình được trang trí với rất nhiều chủ đề phong phú như rồng,
phượng, tùng, mai, trúc, bầu rượu, thanh gươm. Đặc biệt, hình tượng rồng
chiếm một tỷ lệ lớn với số lượng khoảng 500 hình. Gian chính điện (gian
giữa) có sàn thấp, lát gạch lá nem. Bức cửa võng và tấm trần che của
gian chính điện được chạm trổ công phu. Trên ván nong, phía dưới bao lơn
của hàng cột cái và cột con có một bức chạm hình "Bát mã quần phi" (Bầy
ngựa tám con đang phi) với các đáng điệu rất sống động. Trong đình có
nhiều bức hoành phi, câu đối được sơn son thếp vàng.
Khi bước vào lòng đình, quý khách được đón chào và bị cuốn hút bởi tất
cả sự tinh hoa của nghệ thuật chạm khắc thế kỷ XVIII. Sự cuốn hút đầu
tiên với mọi du khách là bức cửa Võng lớn ở cung giữa thuộc gian ngoài.
Bức Võng phủ kín một diện rộng, kéo dài từ Thượng lương xuống Hạ xà và
mở ngang hết một gian. Cửa Võng được chạm lộng kết hợp chạm nổi tinh xảo
trên cả 7 lớp, 9 ô các đề tài tứ linh, tứ quí.... phía trên bức cửa
Võng là bức trần gỗ che kín mái gian giữa với hình trang trí là một con
chim Phượng xoè rộng cánh tới các vầng vân mây quanh đó.
Hoa văn trang trí trên các cấu kiện kiến trúc khác rất đa dạng, chạm trổ
tinh vi, chau chuốt, hài hoà. Kết cấu bộ khung đình khá vững chắc, gắn
với nhau bằng các loại mộng theo lối chồng giường "Thượng tam, hạ tứ".
Mỗi bức chạm khắc ở đình là một tác phẩm nổi tiếng độc nhất vô nhị. Càng
chiêm ngưỡng, càng thêm bị cuốn hút: Bức "Bát mã quần phi" thể hiện sự
sống động, thấy được sự phóng khoáng và nét thanh bình của mảnh đất này
qua hình ảnh và tư thế của từng chú ngựa. Bức Lưỡng nghê phục chầu, con
đực, con cái, mỗi con một vẻ. Những bức chạm rồng tuyệt xảo: Long vân
đại hội, Ngũ long tranh châu, Lục long ngự thiên...từng bức, từng bức
gợi tả bao điều
1.4. Ý nghĩa văn hóa
Vào những ngày lễ, tết, dân làng đến đình thắp hương tế lễ nhộn nhịp,
cầu mong Thành Hoàng và Trời Đất giúp cho mưa thuận gió hòa, cày cấy,
làm ăn thuận tiện và có nhiều phúc lành. Mùa xuân đến, sân đình trở
thành sân khấu hát chèo, hoặc để đấu vật, chọi gà, múa hát giao duyên.
Xung quanh đình, thường có những câ đa cổ thụ vẫy gọi chim về làm tổ,
ríu rít âm thanh, có giếng nước rộng trong vắt để làm nước ăn, nước uống
và để các cô gái làng xinh đẹp đến soi gương làm duyên.
Đình làng còn là nơi trai thanh nữ tú trong làng đến để hẹn hò tình yêu.
Ngôi đình làng Việt Nam cổ kính, trang nghiêm, ẩn mình sau lũy tre xanh
mướt là một tác phẩm nghệ thuật của con người hòa nhập trong làng quê.
1.5.1 Những truyền thuyết liên hệ đến sự ra đời của công trình
Truyền thuyết kể rằng, từ xa xưa, dân Đình Bảng phải vật lộn với nạn thú
dữ, thủy quái mà chưa biết trồng trọt, chăn nuôi. Một hôm, có một vị
lão nông xuất hiện dạy mọi người biết cách khai phá đất đai, đất thấp
trồng lúa, đất cao trồng bầu bí ngô lạc... Cuộc sống dân làng trở nên ấm
no, hạnh phúc. Đến một năm, khi mùa màng bội thu, vị lão nông đó họp
mọi người và đưa ra một bức tranh vẽ Lệ Thần và bảo dân làng lập miếu
thờ thần bảo hộ. Sang ngày hôm sau, cụ già biến mất. Lúc đó dân làng mới
biết là thần hiển linh và thờ làm thành hoàng làng với hiệu là Bạch Lệ
Đại Vương. Từ đó, dân làng mở hội vào ngày 12 âm lịch đến hết ngày 15 âm
lịch để tưởng nhớ công lao của thần. Khi tiếng trống hội gióng lên vào
sáng ngày 12 âm lịch thì các lễ tế được diễn ra liên tục cho đến khi tan
hội.
1.5.2 Những truyền thuyết liên hệ đến các đối tượng được thờ tự, người
xây dựng công trình…
Đình Bảng nguyên trước thờ 3 vị Thành hoàng là các thần Đất, thần Nước,
thần Trồng trọt: Cao Sơn Đại vương, giúp dân đi rừng đi núi tránh được
thú dữ; Thủy Bá Đại vương, giúp dân đi biển đi sông không bị đắm thuyền;
Bạch Lệ Đại vương, dạy dân cấy lúa trồng màu.
Các thần thờ ở Đình Bảng có mô hình chung của các cư dân nông nghiệp.
Khi đồng lúa đã trải dài bát ngát, cuộc đấu tranh đẩy lùi rừng rậm, đồng
lầy không còn nữa, mà việc canh tác trở nên quan trọng thì người ta nhớ
đến Thành hoàng Bạch Lệ Đại vương.
Tương truyền, Cao Sơn Đại Vương là con trai Lạc Long Quân và bà Âu Cơ.
Ông đã theo cha lên núi Tản Viên (Sơn Tây) lập nghiệp. Đến thời Lê Trung
Hưng, Thần Cao Sơn có công tích lớn ngầm giúp Lê Tương Dực dẹp nhiễu
nhương. Tháng 11 năm Kỷ Mão (1509) Lê Tương Dực lánh nạn vào Tây Đô
(Thanh Hoá dấy binh khởi nghĩa, khôi phục sự nghiệp Vua Cao Tổ, cứu vớt
ức triệu dân lành (Văn bia đình Kim Liên ghi).
Được bà Trương Lạc Diện - vợ vua Lê Thánh Tông giúp đỡ nên ba vị Đại
thần: Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Hoàng Dụ, Nguyễn Văn Lữ dốc lòng thờ vua,
tiêu diệt kẻ hung bạo. Ba vị đại thần này một lần đến Phụng Hoá (thuộc
Nho Quan, Ninh Bình hiện nay) trong rừng sâu âm u, họ đã gặp một ngôi
đền cổ có đại tự đề: "Cao Sơn Đại Vương". Linh cảm thế nào cả ba cùng
khấn cầu xin thần giúp đỡ. Quả nhiên, sự ứng nghiệm cùng với tài ba xuất
chúng của mình, mười ngày sau họ đã nhấn chìm được một cuộc bạo loạn.
Vua Lê Tương Dực biết được sự việc, ông đền ơn bằng cách thức cho xây
lại đền thờ khang trang hơn. Và tấm bia "Cao Sơn Đại Vương -Thần Từ Bi
Minh" là được chuyển từ Phụng Hoá về dựng tại đình Kim Liên hiện nay,
với ước nguyện mong thần Cao Sơn - vị Thần thiêng liêng - góp sức bảo vệ
phía Nam kinh thành Thăng Long (Trấn Nam Phương).
1.5.3 Ý nghĩa của các hình thức kiến trúc, trang trí…
Ở mỗi một làng quê đồng bằng Bắc Bộ, kiến trúc gây ấn tượng nhất đối với
du khách là đình làng. Trải qua thời gian, rêu phong đã làm cho ngôi
đình trở nên cổ kính. Mái đình xoè rộng, bốn đầu đao cong vút, bộ cột
đình đồ sộ, ao làng soi bóng ngôi đình trầm mặc, dường như đình làng chỉ
còn sống với thời đã qua.
Đứng đầu Tứ linh là con rồng với nhiều lớp nghĩa. Lớp nghĩa đầu tiên con
rồng là biểu tượng cho mây, mưa, sấm chớp với tâm thức cầu mưa của cư
dân nông nghiệp, sau khi tiếp thu văn hóa Trung Hoa thì con rồng mang
biểu tượng cho uy quyền của bậc quân vương. ở những ngôi đình thế kỷ
XVI, môtíp rồng đã được chạm khắc rất nhiều trên kiến trúc; sau đó môtíp
rồng - tiên có biểu tượng cho ý nghĩa cội nguồn “con rồng cháu tiên”.
Trong đình làng, con rồng làm tăng “uy quyền” của Thành Hoàng làng, vị
vua tinh thần của làng. Con lân, linh vật huyền thoại, biểu trưng cho
ước vọng thái bình; quy (rùa) biểu tượng cho sự trường tồn, trường thọ
và phượng biểu tượng cho hạnh phúc, sang quý. Có một điều chúng ta nhận
thấy: hiếm khi 4 linh vật được sử dụng trong một đề án trang trí mà
thường sử dụng cặp đôi như rồng - phượng hoặc lân - quy. Trong Tứ linh
có bổ sung 4 con vật nữa để thành Bát vật. Đó là ngư-phúc-hạc-hổ. Ngư
(cá) gắn với truyền thuyết “cá hóa rồng” biểu tượng cho sự thành đạt,
hanh thông; phúc (dơi) biểu tượng cho phúc đức; hạc biểu tượng cho sự
cao khiết và trường thọ; hổ là chúa sơn lâm, biểu tượng cho sức mạnh, có
thể trấn áp tà ma. Trong Tứ quý có 4 loài cây: mai - biểu tượng cho sự
hồn nhiên; lan - biểu tượng cho sự tinh khiết; cúc - biểu tượng cho sự
thanh nhàn mà sang trọng; trúc - thể hiện tính cách cứng rắn của người
quân tử. Đồng thời Tứ quý còn mang ý nghĩa của 4 mùa trong năm.
Ngoài ra các môtíp trang trí cặp đôi như: rồng-phượng, lưỡng long chầu
nguyệt, phượng hàm thư, tiên-rồng... đều giàu tính biểu tượng, thể hiện
ước vọng về sự cao sang, hạnh phúc, trường thọ, phúc lộc dồi dào.
1.5.4 Ý nghĩa của công trình đối với cộng đồng, khu vực…
Lúc đầu đình chỉ có chức năng như ngôi nhà sàn lớn của cộng đồng, là nơi
hội họp, nộp sưu thuế và nơi nghỉ cho khách lỡ đường. Về sau, triều
đình phong kiến mới sắc phong cho những vị có công với nước làm thành
Hoàng làng (sống làm tướng, thác làm thần). Vì vậy đình kiêm chức năng
nữa là thờ vị Thành Hoàng. Người có công khẩn đất, lập làng, vào mỗi dịp
cúng đình, con cháu của những vị này đều được một miếng thịt nạc vai
của con heo tế thần và câu "miếng thịt giữa làng bằng một sàng xó bếp"
có ý nghĩa là vậy.
Vào ngày lễ tết, dân trong làng tới đình thắp hương tế lễ, cầu mong
Thành Hoàng làng và trời đất phù giúp mưa thuận gió hoà để mùa màng gặt
hái thuận tiện và có nhiều phúc lành. Đây cũng là dịp để tưởng niệm công
tích của các vị thần và dịp này người ta tổ chức hát chèo, hát bội hoặc
cải lương với những tuồng tích xưa. Lễ hội ở đình diễn ra còn do tín
ngưỡng thờ thần và niềm vui thắng trận, được mùa. Tất cả đều nhằm nhớ về
cội nguồn, liên kết cộng đồng.
Hội làng diễn ra vào mùa xuân, mọi người thường mặc quần áo đẹp, tụ tập
ngoài đình xem hát chèo, tuồng. Ngôi đình trở thành một sân khấu nhỏ của
đấu vật, chọi gà, đánh đu, kéo co, thi thổi cơm giữa cảnh trí thiên
nhiên khoáng đạt, ấm áp. Bởi thế, lễ hội ở đình trở nên thiêng liêng và
có sức cộng cảm, trở thành nét văn hoá đặc sắc trong cộng đồng dân tộc.
Mọi khía cạnh đời thường được nâng lên không gian thiêng liêng. Đèn nến
sáng trưng, cờ ngũ sắc tung bay và chiêng trống nổi lên. Văn hoá đình
thuộc văn hoá dân gian là nét đẹp văn hoá và là di sản quý của dân tộc
cần được gìn giữ và phát huy.
Công trình tương tự ở trong nước hoặc các quốc gia trong khu vực.
. Giới thiệu một công trình tương tự về chức năng trong khu vực và chỉ
ra một số điểm tương đồng và khác biệt.
Đình Văn Phạm được xây dựng từ thời hậu Lê, sang thời Nguyễn đình được
trùng tu với quy mô lớn, dấu tích hiện nay còn lưu giữ trên câu đầu của
đình "Minh Mạng ngũ niên" (tức năm 1824).
Đình Văn Phạm thờ Linh Phù Tôn Thần, tên huý là Thiện, sinh trưởng dưới
thời Hán Chiêu Đế. Ngay từ nhỏ, Thần đã có tư chất thông minh, tinh
thông văn võ, lớn lên ra làm quan cho triều đình nhà Hán. Thần có công
chiêu an dân chúng vùng Lại Thượng (tức làng Văn Phạm ngày nay), dạy dân
làm ăn, mở trường dạy học. Khi mất, Thần được vua nhà Hán ban phong
Đương cảnh thành hoàng Linh Phù Tôn Thần, được nhân dân lập đền thờ. Sau
này, thần có công âm phù nhà Trần đánh giặc Mông Nguyên, phù giúp nhà
Lê trong cuộc khởi nghĩa chống quân Minh và được các triều đình ban tặng
sắc phong.
Đình được dựng trên một bãi đất rộng giữa làng có tên là gò Con Hổ. Mặt
đình quay về hướng Đông nam-được coi là hướng đại cát. Trước mặt đình có
một dãy ao lớn, bên trái là một cái giếng rộng mà nhân dân quen gọi là
mắt hổ, phía sau có ngôi chùa cổ tạo thành một quần thể văn hoá thâm
nghiêm.
Hiện nay, đình Văn Phạm còn bảo lưu được nhiều hiện vật có giá trị về
kiến trúc và nghệ thuật. Toàn bộ công trình của đình trước kia gồm: Toà
đại đình có ba gian hai trái, hai gian hậu cung tạo thành cấu trúc kiểu
chữ đinh với mái ngói đao cong duyên dáng. Trên nóc có gắn rồng chầu mặt
nguyệt. Hai đầu bờ nóc và khoảng giữa bờ dải dốc có gắn các con kim, ly
cách điệu tạo dáng mỹ thuật cho bên ngoài của đình. Năm 1996, do yêu
cầu công năng sử dụng, đình được tu bổ sửa chữa cho to đẹp hơn. Toà đại
đình được xây thành 5 gian không có trái, kích thước 13,4m x 5,9m. Mặt
trước hai đầu hồi được xây một đôi cột đồng trụ tạo dáng đình vững chãi,
kiên cố. Đình được kết cấu vì kèo kiểu giá chiêng, trang trí hoạ tiết
không nhiều, các hình chạm trổ thể hiện chủ yếu ở các góc khung đình và
các cốn rường. Đề tài trang trí là rồng (với tâm thức cầu mưa của cư dân
nông nghiệp, sau khi tiếp thu văn hoá của Trung Hoa rồng mang biểu
tượng cho uy quyền của các bậc đế vương), phượng (biểu tượng cho hạnh
phúc, sang quý) ngoài ra còn có các hoạ tiết mây, đảo lửa và hoa lá cách
điệu mang đặc trưng phong cách kiến trúc thời Nguyễn.
Đình Văn Phạm hiện còn lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật cổ có giá trị
như các tài liệu chữ Hán, các đồ thờ, rước sách… Các đồ thờ gồm: ngai
thờ, sập thờ chạm khắc đẹp, mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.
Trong đó nổi bật hơn cả là tấm Đại tự "Tối linh từ", kích thước 0,95m x
2,9m, có niên đại Kỷ Hợi (1899) chất liệu làm bằng gỗ được chạm khắc với
nhiều họa tiết, hoa văn đẹp; các chữ Hán đục nổi được sơn son thếp
vàng, đây thực sự là tác phẩm có giá trị lịch sử, nghệ thuật cao. Ngoài
ra còn có thần tích do Hàn lâm viện Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính
phụng soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572). Hiện nay đình còn lưu giữ 7
đạo sắc phong do triều đình ban tặng, trong đó có 3 đạo sắc phong đã bị
rách không xác định được niên đại, các đạo còn lại cho biết thần được
vua ban phong vào các năm: Tự Đức năm thứ 33, Đồng Khánh năm thứ 2, Duy
Tân năm thứ 3, Khải Định năm thứ 9.
Hàng năm nhân dân trong vùng tổ chức lễ hội vào ngày 16 tháng 4 âm lịch,
trong đó ngày 15 tháng 4 là ngày mở cửa đình, ngày 16 tháng 4 là ngày
chính hội. Lễ hội gắn với truyền thống lịch sử (sự tích thần đánh giặc,
dạy nghề cho nhân dân), với nghi lễ nông nghiệp (lễ rước), lễ tế thần.
Ngày 16 tháng 4 dân làng tổ chức cúng tế, đây là hoạt động thể hiện lòng
biết ơn của dân làng đối với thần, mong cầu thần tiếp tục phù hộ cho
dân làng khoẻ mạnh, mùa màng tươi tốt… Sau lễ tế là nghi lễ rước kiệu,
dân làng sẽ rước kiệu của thần sang các làng bên cạnh như làng An Mỹ, Mỹ
Hương (Lương Tài). Trong lễ hội, ban tổ chức còn tổ chức các cuộc thi
và các trò chơi dân gian như đánh cờ, kéo co, đánh vật, đu quay, hát
đối… Đây là lễ hội văn hoá thu hút đông đảo nhân dân trong vùng tham
gia, mang đậm tính chất của nền văn minh nông nghiệp lúa nước.
Đình Văn Phạm là một công trình có kiến trúc có giá trị lịch sử và nghệ
thuật cao, thể hiện tâm thức và tình cảm con người, trung tâm tín ngưỡng
thờ Thành hoàng, nơi diễn ra các sự kiện chính trị, văn hoá chung của
làng trong những sinh hoạt cộng đồng. Các tài liệu, hiện vật lưu giữ ở
đình hiện nay như thần tích, sắc phong, bia đá là những tư liệu lịch sử
có giá trị trong nghiên cứu, qua đó xác định được chính xác khoa học về
người được thờ ở di tích, lịch sử tu dựng, sửa chữa đình, công đức của
các thế hệ cha ông đã xây dựng, gìn giữ và tu tạo.
Đánh giá, khẳng định giá trị của công trình nghiên cứu:
. Là công trình tiêu biểu cho thể loại của nó vào thời kì đó.
Đình Đình Bảng là hình ảnh độc đáo của kiến trúc dân tộc, giữ được hình
ảnh toàn vẹn kiểu thức nhà sàn dân tộc được áp dụng cho kiến trúc đình
làng. Nhìn lại lịch sử từ buổi đầu dựng nước, hình ảnh ngôi nhà sàn còn
in giữ trên các trống đồng Đông Sơn - Một sáng tạo của cha ông ta trong
lĩnh vực kiến trúc nhà ở. Không thể đem ngôi đình đồ sộ sau mấy mươi thế
kỷ đem so sánh với những nhà sàn trên trống đồng Đông Sơn nhưng phải
nhận thấy cả hai mẫu hình này có phong thái thống nhất, có sự kế thừa và
phát triển truyền thống kiến trúc được xác lập từ buổi đầu dựng nước.
Suốt hơn 200 năm kể từ khi khởi dựng, cho đến nay đình Đình Bảng đã đi
vào đời sống tình cảm và là niềm tự hào của người xứ Bắc cũng như nhân
dân cả nước: "Thứ nhất là đình Đông Khang
Thứ nhì Đình Báng, vẻ vang đình Diềm"
Đình Đông Khang ngày nay không còn, cái mà hôm nay ta còn được chiêm
ngưỡng lại là Đình làng Đình Bảng. Với vẻ đẹp về quy mô kiến trúc, nghệ
thuật chạm khắc, nghệ thuật trang trí và cái quý giá hơn là đình Đình
Bảng cho du khách một cái nhìn trọn vẹn của kiến trúc đình làng được xây
dựng vào nửa đầu thế kỷ XVIII, trong khi các ngôi đình khác không còn
giữ được dáng vẻ nguyên vẹn nữa.
. Có giá trị về mặt sử dụng, phù hợp với nhu cầu của con người vào thời
kì đó.
Ở đình làng, chúng ta rất dễ nhận ra hầu hết các thành phần kiến trúc
đều được chạm khắc trang trí. Ngoài các hình rồng, phượng, hoa lá, ta
thường gặp trong nghệ thuật điêu khắc trang trí đình làng hình ảnh những
ngày hội làng, những khung cảnh lao động nhọc nhằn hay bức vẽ thể hiện
tình yêu mẹ con, chồng vợ và cả những lời lên án chế độ quân chủ hà khắc
thời phong kiến. Tất cả những điều ấy là dấu ấn tuyệt vời cho các thế
hệ mai sau hiểu và cảm được không khí sinh hoạt của cộng đồng làng xã
thời xưa, đồng thời là bản sắc của nền kiến trúc cổ Việt Nam – một bản
sắc văn hóa và lịch sử sâu sắc nhất.
Đình làng là nơi nào dân chúng tụ lại với nhau sinh sống thành thôn,
xóm, làng…, nơi đó họ dựng một cái đình, cùng ra đó khấn vái trời đất,
thánh thần, và bàn chuyện công, từ cưới vợ gả chồng nhà người này đến
con nhà kia chửa hoang, từ chuyện con nhà nọ lên kinh đi thi đến con nhà
kia sung quân, từ cheo cưới đến sưu thuế… Từ đó đặt ra những hương ước…
Có thể, có sự lạm dụng vì “thế thái nhân tình”, song cái đình làng đó
đã là cái gì thiêng liêng nhất của mọi thôn, làng của người Việt muôn
thuở, cả trong nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. “Triết lý cái đình” đó của
người Việt, từ lâu đã được nhìn thấy.
. Có giá trị về mặt thẩm mỹ.
Đình làng Đình Bảng, là kho tàng hết sức phong phú của điêu khắc Việt
Nam trong lịch sử. Điêu khắc cũng tồn tại ở chùa, đền, các kiến trúc tôn
giáo khác, nhưng không ở đâu nó được biểu hiện hết mình như ở Đình, mà
tiêu biểu ở đây là Đình BảngĐiêu khắc ở đình làng không những là nguồn
tài liệu để nghiên cứu lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, mà còn là nguồn tài
liệu để nghiên cứu đời sống ngày thường cũng như tâm hồn của người nông
dân Việt Nam.
Nói điêu khắc đình làng cũng là nói đến nghệ thuật trang trí đình
làng.Điêu khắc ở đây là điêu khắc trang trí. Người thợ làm đình chẳng
những thành thạo trong việc dựng đình mà còn biết tô điểm cho ngôi đình
thêm đẹp. Điêu khắc ở đây do đó gắn liền với kiến trúc. Hầu như trên các
thành phần của kiến trúc đình làng đều được các nghệ nhân xưa dùng bàn
tay điêu luyện của mình chạm khắc thành những hình mẫu có giá trị nghệ
thuật cao, thu hút sự chú ý của mọi người lúc ghé thăm đình. Ngay những
ngôi đình từ thế kỷ XVI cho đến thế kỷ XVIII, điêu khắc trang trí đình
làng mang đậm tính chất nghệ thuật dân gian. Những nhà điêu khắc vô danh
xuất thân từ nông dân đã đưa vào đình làng những hình ảnh gần gũi với
cuộc sống thực, hay là cả với giấc mơ của họ, với một phong cách hết sức
độc đáo và một tâm hồn hết sức sôi nổi.
Khác với những kiến trúc tôn giáo khác, ngay ở những vị trí tôn nghiêm
của đình làng, ta cũng có thể gặp hình tượng những đôi trai gái đùa ghẹo
nhau hay đang tình tự... Từ thế kỷ XIX, điêu khắc đình làng hầu như
không còn những cảnh sinh hoạt dân gian. Từ đây chỉ còn những hình trang
trí hoa lá và phổ biến là hình tứ linh (long, ly, quy, phượng). Trong
các đình thế kỷ XIX, thường có những bức cửa võng trước điện thờ được
chạm trổ khá công phu.
. Có giá trị về mặt văn hóa: lưu giữ những truyền thuyết, kinh nghiệm
ứng xử với môi trường tự nhiên xã hội…
Đình làng Đình Bảng không chỉ có vẻ đẹp kiến trúc mà còn mang đậm mầu
sắc tâm linh mà, lưu truyền và bảo tồn được nét đẹp cùng những giá trị
đặc sắc của văn hoá truyền thống, khơi dậy tinh thần đoàn kết, thắt chặt
tình làng nghĩa xóm; đây cũng là nơi để những người đang sống tưởng nhớ
đến tổ tiên ông cha đã có công khái khẩn ra mảnh đất này. Gắn với lịch
sử thăng trầm của vùng đất này, được thừa hưởng sự linh thiêng của đời
xưa, vì lẽ đó Đình làng đình Bảng có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống
tinh thần của nhân dân trong vùng.
Đình làng trang trọng và thiêng liêng, nó gần như là đại diện, là biểu
tượng của quyền lực làng xã. Nhưng đình làng lại là nơi tụ họp mọi người
trong mọi sinh hoạt cộng đồng. Đình làng trở thành một nơi thân quen
gần gũi, là nơi ở, là cuộc sống của những người nông dân Việt Nam. Đình
làng xưa - nét đặc trưng tiêu biểu nhất của làng quê Việt Nam. Đình là
biểu hiện sinh hoạt của người Việt Nam, nơi "cân bằng" phép tắc của cuộc
sống cộng đồng, nơi khai diễn những nét tài năng, tư duy của dân làng,
nhất là về tín ngưỡng, nơi để thờ thần Thành Hoàng làng, người có công
với dân, cứu nước, giữ nước hoặc giúp dân nghề nghiệp sinh sống Nhìn
quanh đình làng, ta sẽ thấy lòng tri ân, trọng nghĩa, trọng tài, ''uống
nước nhớ nguồn'' của người Việt Nam. Tuy đình là của dân làng nhưng thần
không hẳn là người của làng. Hơn nữa người Việt Nam thừa hưởng nhiều
tín ngưỡng cổ sơ, nguyên thủy nên thờ và tôn kính rất nhiều vị thần như:
thần núi, thần biển, thần nước... ở Tất cả những tín ngưỡng ấy, các thế
hệ dân Việt Nam tiếp nối nhau tạo thành một nền vǎn hoá đình, một nền
vǎn hóa hỗn hợp, đa dạng, có mặt nhiều thành phần tôn giáo khiến cho
đình trở thành một tập thể siêu thần, thành một sức mạnh vô hình, tạo
một niềm tin, một niềm hy vọng, một sức mạnh vô hình của làng cộng đồng
xã Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tìm hiểu lịch sử kiến trúc Việt Nam – Ngô Huy Quỳnh, Nxb xây dựng Hà
Nội 1986
2. Kiến trúc Việt nam – Ngô Huy Quỳnh, Nxb TPHCM,1986
3. Các loại kiến trúc cổ Việt Nam – Vũ Tam Lang ĐHKT HN 1986
4. Từ những mái tranh cổ truyền – Nguyễn Cao Luyện Nxb VH HN 1986
5. Từ: Tài liệu.vn
6.google.vn.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét