Xem Ô châu cận lục viết năm Ất Mão (1555), đời Mạc Phước Nguyên, tức trước khi ông Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa không lâu, ở hai phủ Tân Bình, Triệu Phong có làng cách mặc còn theo kiểu Chăm.
Từ khi Nguyễn Hoàng vào Thuận, Quảng, người Việt vào đông thêm và y phục, khí dụng, phong tục cố nhiên là y theo kiểu họ đã sống ở bắc.
Tương truyền rằng Chính Lộc Khê hầu (Đào Duy Từ) trong khi bày mưu định kế chống cự với họ Trịnh, đã khuyên chúa Hy Tông bắt dân thay đổi tập tục cho khác hẳn dân bắc, như bỏ nón thượng, đội nón chóp, bỏ quần màu đen, mặc quần màu nâu, đàn bà bỏ áo bốn thân mà mặc áo 5 thân gài khuy, bỏ tóc bao mà búi tó, bỏ váy để mặc quần. Đến đời chúa Thế Tông, năm Giáp Tý, lên ngôi vương thay đổi mũ áo các quan và bắt nhân dân cũng phải cải cách y phục.
Phủ biên tạp lục chép: “(Hiểu vương) xưng vương hiệu, lấy thể chế áo mũ trong “tam tài đô hội” làm kiểu, hạ lệnh cho trai gái hai xứ đổi dùng quần áo y như Bắc quốc (Trung Quốc) để tỏ sự biến đổi... nhưng khiến phụ nữ đều mặc áo ngắn, hẹp tay như áo đàn ông thì Bắc quốc không như thế. Trải hơn 30 năm, người ta đều tập quen, quên cả tập cũ...”.
Sau khi Hoàng Ngũ Phúc chiếm Thuận Hóa, đặt nha môn Trấn Vũ, tháng 7 năm Bính Thân (1776), hiểu dụ nhân dân rằng: “Y phục bản quốc vốn có chế độ, địa phương này từ trước cũng tuân theo quốc tục. Nay kính vâng thượng đức, dẹp yên biên phương, trong ngoài như nhau, chính trị và phong tục phải được tề nhất. Nếu còn có người mặc quần áo kiểu người khách (Trung Quốc) thì nên đổi theo thể chế của nước nhà. Đổi may y phục theo tục nước mà thông dụng vải, lụa, duy có quan chức mới dùng xen the, là, trừu, đoạn, còn gấm vóc và các thứ hoa rồng phượng thì đều không được theo thói cũ tiếm dùng. Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng, ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hẹp tùy ý. Áo thì từ hai bên nách trở xuống phải may kín liền, không cho xẻ hở. Duy đàn ông muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc cũng cho. Lễ phục thì dùng áo cổ đứng tay dài, vải xanh lạt hay vải đen, vải trắng, tùy nghi. Còn các hạng về viền cổ kết lót thì đều theo như hiểu dụ năm trước mà chế dùng”. Nhưng chỉ năm sau Tây Sơn chiếm Thuận Hóa, chính quyền Lê - Trịnh không còn, chắc là nhân dân lại dùng y phục kiểu cũ.
Theo Lê Quý Đôn, người Thuận Hóa sống xa hoa: “Thuận Hóa thanh bình lâu ngày, công tư đều giàu có, y phục dùng đồ tươi đẹp. Lại trải qua thời Hiểu vương (Nguyễn Phước Khoát) hào hoa, phóng túng, bắt chước nhau trở thành phong tục, y phục gấm vóc, chiếu nệm bằng mây hoa, phú quý phong lưu, đua nhau khoe đẹp [...] Binh sĩ đều ngồi chiếu mây, gối dựa dọc hàng ôm lò hương, uống trà ngon trong chén sứ bịt bạc, nhổ ống nhổ thau, đĩa bát dùng trong ăn uống không có gì là không của Trung Quốc, một bữa ăn ba bát lớn. Đàn bà, con gái đều mặc áo sa, là, tơ, lụa, thêu hoa ở cổ tròn. Coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, xa xỉ quá lắm”. Có lẽ ở đây tác giả Phủ biên tạp lục chỉ phong tục ở thành Phú Xuân là nơi đã trở thành phồn hoa từ đời chúa Thế Tông, chứ các nơi khác ở Quảng Nam và trong dân gian thì không thể xa hoa như vậy được.
Ở đất Gia Định, người Việt mới đến kiết cư, lập nghiệp đông đúc từ đời chúa Hiển Tông, cuối thế kỷ 17. Sách Gia Định thông chí chép: “Gia Định là đất phương Nam của nước Việt. Khi mới khai thác, lưu dân nước ta cùng người kiều ngụ như Đường (Trung Quốc), người Cao Miên, người Tây dương, người Phú Lang Sa (Pháp), người Hồng Mao (Anh), Mã Cao (người Tây ở Macau đến), người Đồ Bà, ở lẫn lộn, nhưng về y phục, khí cụ thì người nước nào theo tục nước ấy. Người Việt vẫn theo tập tục của Giao Chỉ... Quan chức thì đội khăn cao sơn, mặc áo phi phong, mang giày bì đà, sĩ thứ thì búi tóc, đi chân trần, con trai con gái đều mặc áo ngắn tay, bâu thẳng, may kín hai nách, không có quần, con trai thì dùng một miếng vải cột từ lưng thẳng xuống dưới háng, quanh lên đến rốn, gọi là cái khố, đội nón lớn, hút bình điếu, ở nhà thấp, trải chiếu ngồi dưới đất, không có bàn ghế. Vua Thế Tông cải định sắc phục của quan văn, quan võ, tham chước các đời Hán, Đường, Minh mà chế ra, còn y phục, gia thất, khí dụng của sĩ thứ thì đại lược như thể chế đời Minh, bỏ hết tục xấu Bắc Hà mà làm một nước y quan văn hiến vậy”.
(Theo Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 - 1777 (Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam), NXB Khoa học Xã hội 2016)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét