Vương Tư Đồ khéo dùng “Liên hoàn kế” diệt Đổng Trác
Vào thời Hán mạt, liên minh Đổng Trác – Lữ Bố nổi lên như một khối u, làm suy kiệt nhà Hán. Vốn bản tính tham tàn, Đổng Trác đã gây ra biết bao tội ác trời đất không dung như: giết vua Thiếu Đế, giết Hà Hậu và Đường Phi, sát hại dã man bá quan văn võ, lạm sát thường dân vô tội.
Gian thần Đổng Trác, đại hoạ thời Hán mạt. Ảnh: Hình tượng Đổng Trác trên điện ảnh (phim Tam Quốc diễn nghĩa 1996).
Đổng Trác quy tụ quanh mình nhiều kẻ bất lương, tàn bạo: con rể Lý Nho đa mưu túc trí, nổi tiếng thâm hiểm, con nuôi Lã Bố kiêu dũng, thiện chiến. Cũng vì thế mà Đổng Trác ngày càng lạm quyền, khinh thường bá quan văn võ và chính cả vua nhà Hán, âm mưu thoán nghịch. Trong tình cảnh ấy, quan tư đồ Vương Doãn, vốn là một cựu thần Hán thất, cảm thấy vô cùng bất bình nhưng cũng giống như nhiều đồng liêu khác, ông cũng hoàn toàn bất lực.
Vương Doãn có một người con gái nuôi tên là Điêu Thuyền, nhan sắc tuyệt trần, chim sa cá lặn. Lã Bố và cả Đổng Trác vốn cực kỳ háo sắc. Vương tư đồ mới nảy ra ý định lập kế liên hoàn để trừ bỏ liên minh Đổng Trác – Lã Bố. Kế liên hoàn của Vương Doãn bao gồm rất nhiều mưu kế kết hợp với nhau: kế mỹ nhân, kế ly giá, kế “dụ rắn khỏi hang”, khổ nhục kế…
Cùng ngắm vẻ đẹp của nàng điêu thuyền, đẹp trong mỗi giai đoạn khác nhau của cuộc đời.
Vương Doãn nói với con gái: “Cha tin lòng con, nhưng ngại con không thực hành được. Nguyên cha con thằng Đổng Trác là phường háo sắc, bây giờ cha muốn dùng “liên hoàn kế”, trước đem con hứa tiếng gả cho Bố rồi sau lại hiến cho Trác. Con ở giữa tùy cơ ứng biến làm cho cha con nó trở lại giết hại nhau. Nếu mà làm được như vậy là con liều thân giúp nước, công nghiệp vô cùng to lớn“.
Nghe lời cha, Điêu Thuyền đã dùng “khổ nhục kế”, chịu muôn vàn đắng cay cuối cùng cũng đã chia rẽ thành công được liên minh này, khiến Lã Bố trở mặt giết cha nuôi, giải phóng triều đại nhà Hán khỏi mối nguy trăm bề này. Vương Doãn tru di 3 họ nhà Đổng Trác và bổ nhiệm Lã Bố làm Phấn vũ tướng quân, phong làm Ôn hầu.
Tư đồ Vương Doãn giống như đạo diễn, còn Điêu Thuyền giống như diễn viên vậy, đạo diễn giỏi, diễn viên xuất chúng mới có thể tạo nên kỳ tích mà 18 lộ chư hầu với mấy chục vạn quân binh cũng không thể làm nổi.
Khổng Minh dùng “Không thành kế” đuổi 15 vạn hùng binh Tư Mã Ý
Nhắc đến Khổng Minh, quả thật khó mà kể hết được những mưu kế “quỷ khốc thần sầu” của ông từng khiến biết bao anh hùng thời Tam Quốc phải nghiêng mình nể phục vì tài thao lược phi thường của ông. Mưu kế nổi tiếng nhất của ông chính là “Không thành kế” nổi tiếng, chỉ dùng một tiếng đàn mà có thể đẩy lùi 15 vạn quân binh nước Nguỵ. Đây quả đúng là tiếng đàn vô tiền khoáng hậu.
Vừa mất Nhai Đình, giờ lại còn nghe tin Tư Mã Ý đang hoả tốc kéo đại quân đến đây, lòng Gia Cát Lượng không khỏi lo lắng.
Sau khi Mã Tốc đề mất Nhai Đình, Gia Cát Lượng chỉ còn có 2500 quân sĩ đóng ở huyện Tây Thành. Bỗng có thám mã phi về báo: ”Tư Mã ý mang mười lăm vạn đại quân đang kéo đến Tây thành”. Lúc ấy, không có vị đại tướng nào ở bên Gia Cát Lượng, mà chỉ có một tốp quan văn. Nghe tin này, các quan đều tái mặt đi vô cùng lo sợ. Gia Cát Lượng bước lên mặt thành quan sát, quả nhiên xa xa bụi cuốn mịt mờ, quân ngụy đang xông tới Tây Thành. Gia Cát Lượng lập tức truyền lệnh:
“Đem dấu hết cả cờ quạt đi, binh lính ai nấy đều vào giữ lấy chòi gác tuần tiễu của mình trên mặt thành, nếu có kẻ nào tự ý ra vào cổng thành hoặc nói lớn, sẽ bị giết. Mở rộng hết bốn cổng thành ra, ở mỗi cổng thành lấy hai chục người cải trang làm dân thường, quét ở đường phố. Nếu quân Nguỵ đến, không được nhốn nháo, ta khắc có mưu kế để đối phó.“
Truyền lệnh xong Gia Cát Lượng khoác đạo bào lông hạc, vấn khăn nhiễu trên đầu, dẫn hai tiểu đồng mang theo một cây đàn, đi lên mặt thành, đốt hương gẩy đàn.
Trời xanh đã giúp Gia Cát Lượng khi Tư Mã Ý cũng là một người tinh thông âm luật, chứ không phải chỉ là kẻ hữu dũng tầm thường, nếu không thì…
Nghe thám báo về báo lại tình hình, Tư Mã Ý ra lệnh cho quân sĩ lập tức dừng lại, tự phi ngựa lên phía trước nhìn lên, quả nhiên thấy Gia Cát Lượng ở trên mặt thành vẻ mặt tươi cười ngồi tựa lan can, đốt hương gẩy đàn, bên trái có một tiểu đồng, tay bưng một thanh gươm báu, bên phải cũng có một tiểu đồng tay cầm phất trần. Trong ngoài cổng thành chỉ có chừng hai chục người dân thường, cắm cúi quét đường cứ như thể không có ai ở bên mình. Sau khi nhìn thấy thế, Tư Mã ý nghi ngờ rằng trong thành có mai phục, vội vàng ra lệnh lui binh.
Thực ra, trong tiếng đàn của Gia Cát có rất nhiều thâm ý. Quân Ngụy rút chạy rồi, Gia Cát Lượng thốt lên: “Trời xanh cứu ta, Tư Mã Ý thực là hiểu âm luật“. Về phần Tư Mã Ý về đến trại, kéo ghế cho Tư Mã Sư ngồi, nghe con nói qua tình hình Tây Thành rồi bảo: “Ta thua Khổng Minh ở số trời, số trời không giúp ta”.
Không vội hành động, mà bình tĩnh suy nghĩ, Tư Mã Ý đã hiểu ra được ý đồ của Gia Cát Lượng.
Vậy rốt cuộc “trời xanh” đã giúp Gia Cát Lượng điều gì? Và “số trời” đã không giúp Tư Mã Ý điều gì? Cái này chắc chắn là có liên quan đặc biệt đến tiếng đàn mà Gia Cát Lượng đánh. Qua tiếng đàn, bằng âm luật, Gia Cát Lượng đã chuyển đến Tư Mã Ý thông điệp rất rõ ràng: “Nhà Ngụy ba đời liền nghi ngờ, cảnh giác ông. Sở dĩ ông được làm nguyên soái thống lĩnh ba quân là bởi tôi cầm binh nước Thục công phá Ngụy Quốc. Tôi chết rồi, mối lo về Thục quân không còn, Ngụy Đế tất sẽ khiến ông không toàn mạng sống. Xưa nay thỏ khôn chết thì chó săn bị nấu, chim bay cao chết thì cung mạnh bị cho vào bếp, đó là lẽ thường”.
Đây là cảnh giới tư tưởng mà chỉ hai nhà dụng binh xuất chúng mới có thể hiểu, người thường không đạt đến cái cảnh giới này được, nên bề ngoài chỉ nhìn thấy ‘kết quả’ của “hiện thực giả”, còn nguyên nhân sâu xa thì chỉ có 2 người đó hiểu được mà thôi. Đây cũng là một trong những điều bí ẩn nhất trong các kế sách của Gia Cát Lượng về nghệ thuật dụng binh thần sầu của mình. Đúng là một cặp tri kỷ, nhờ đối trận mà tìm thấy nhau, tuy nhiên vai diễn lịch sử lại không cho họ trở thành bằng hữu tâm giao dưới ánh trăng, cùng ngồi kể chuyện Tam Quốc và phân định thiên hạ trên bàn cờ.
“Khổ nhục kế” của Chu Du và Hoàng Cái, đốt sạch quân Tào
“Hỏa thiêu Xích Bích” được đánh giá là chiến thắng kinh điển của Đại đô đốc Đông Ngô Chu Du, ngoài những mưu kế của chính mình và Gia Cát Lượng, không thể không kể đến một nhân vật đã làm nên huyền thoại này – đại tướng Hoàng Cái.
Hoàng Cái, một đại tướng quân của Đông Ngô, một lão tướng vào sinh ra tử từ thời Tôn Kiên sáng lập nên triều đại này.
Năm 208, Tào Tháo khởi đại quân xuống miền nam. Sau khi đánh chiếm Kinh châu, Tào Tháo tiến sang Giang Đông. Do bệnh dịch lây lan và quân phương bắc không quen đánh thủy, Tào Tháo khóa chiến thuyền lại với nhau để chờ sang đầu năm sau sẽ tấn công. Hoàng Cái thấy vậy bèn hiến kế với Đô đốc Chu Du: “Địch đông ta ít, nếu cầm cự lâu dài thì ta bất lợi. Tào Tháo cột chặt thuyền lại với nhau, rất tiện cho việc dùng hỏa công, tốc chiến tốc thắng“.
Chu Du nghe theo. Hoàng Cái làm theo kế, ấy là kế khổ nhục. Một hôm, biết Sái Trung, Sái Hòa sang Đông Ngô trá hàng, Chu Du và Hoàng Cái cố ý giả vờ cãi nhau. Khi Hoàng Cái nói phải quét sạch quân Tào trong 1 tháng, nếu không thì hãy cởi giáp quy hàng, Chu Du đã nổi giận mắng Hoàng Cái là kẻ phản phúc.
Du ra lệnh chém. Lão tướng Hoàng Cái không phục, mắng chửi Chu Du không tiếc lời. Đoạn bị đao phủ lập tức lôi ra ngoài. Lỗ Túc chạy tới xin Du tha mạng lão tướng với lý do chém đại tướng sẽ làm lòng quân lay động.Tất cả tướng sĩ cũng lập tức quỳ rạp xuống xin Du tha chết Hoàng Cái. Chu Du vẫn tức giận sôi người, sai quân lính đánh Hoàng Cái 100 gậy.
Nếu không có ý chí kiên cường, không phải vì an nguy của cả một đất nước, thì làm sao mà một lão tướng như thế này có thể chịu được nỗi đau ghê ghớm từ tâm hồn tới thể xác như vậy!
Hoàng Cái bị lôi ra đánh, trông vô cùng thương tâm, Du trong lòng đau như cắt khi nghe tiếng Hoàng Cái khóc nấc lên, máu văng ngay trước mặt 2 tên gián điệp họ Sái. Các tướng phía dưới chứng kiến cảnh này, ai nấy đều khóc như mưa. Đến khi Hoàng Cái bị đánh ngất, các tướng lao ra xin Du dừng tay, Du mới chịu tha cho ông.
Hoàng Cái giả cách oán hận Chu Du, nhờ Hám Trạch sang đưa thư trá hàng cho Tào Tháo. Được Sái Trung, Sái Hòa về mật báo tin Hoàng Cái bị đánh, cộng với tài ăn nói của Hám Trạch, Tào Tháo hoàn toàn tin việc Hoàng Cái sang hàng là thật. Tào Tháo ước hẹn với Hám Trạch và sẵn sàng đợi ngày Hoàng Cái sang hàng. Không ngờ đó cũng chính là ngày mà toàn bộ 83 vạn Tào quân bị đốt thành tro.
Theo đúng ngày giờ đã định, Hoàng Cái chuẩn bị một đội thuyền cơ động, chừng 10 chiếc, bên trong chứa đầy mồi lửa, đồ dễ cháy nhằm thẳng hướng thủy trại quân Tào bơi đến. Khi thuyền đến giữa sông, Hoàng Cái ra lệnh châm lửa đốt thuyền. Gió Đông Nam nổi lên, hỏa thuyền cháy bừng bừng, thuận theo gió lao vun vút vào thủy trại quân Tào.
Các chiến thuyền của Tào Tháo vốn bị xích chặt vào nhau, mau chóng bắt lửa. Gió càng to, lửa càng đượm, nuốt chửng toàn bộ thủy trại kiên cố tưởng bất khả xâm phạm của quân Tào. Quân Tào phần bị lửa thiêu, phần nhảy xuống sông chết đuối, bi đát không sao kể xiết.
Để thực hiện được đại kế, Hoàng Cái đã phải chịu khổ một phen xiết bao đau đớn. Tuổi già sức yếu, phải chịu 100 trượng và mang tiếng nhục trước ba quân, bị đánh đến gần chết nhưng lão tướng quân vẫn một lòng vì nước, nghiến răng chịu đau vì việc lớn. Đây quả là một tấm lòng son sắt trung liệt hiếm có lưu danh sử sách, thật đáng được khen ngợi lắm thay!
Lã Mông khéo dùng kế “Dối trời qua biển”, đoạt Kinh Châu, hại Quan Vũ
Quan Vũ được Lưu Bị và Gia Cát Lượng tin tưởng giao cho trấn thủ ở Kinh Châu, cổ họng huyết mạch, nằm trên ngã ba đường giữa Ngụy, Thục và Ngô. Đại đô đốc bên phía Đông Ngô khi ấy là Lã Mông đóng quân ở bờ bên kia Trường Giang, thường xuyên nhòm ngó Kinh Châu nhưng vẫn thường lép vế trước uy vũ của Quan Vũ.
Năm 219, Quan Vũ mang đại quân đánh lên phía bắc, chinh phạt lãnh thổ Tào Tháo. Đại đô đốc Đông Ngô là Lã Mông cho đây là cơ hội tốt để thu hồi lại Kinh Châu. Tuy nhiên, Quan Vũ vẫn để lại rất nhiều quân phòng thủ hùng hậu ở đây khiến Lã Mông loay hoay chưa biết tính kế gì.
Quan Vũ đem quân đi đánh quân Nguỵ, cơ hội này rất khó có được, nên Lã Mông lập tức bày kế giành lấy Kinh Châu.
Lã Mông nghĩ ra một mẹo, bàn với Tôn Quyền đưa Lục Tốn, vốn là một thư sinh vô danh lên làm Đại đô đốc thay mình hòng làm Quan Vũ chủ quan. Lục Tốn vừa nhậm chức liền gửi thư hết mực ca ngợi Quan Vũ, lời lẽ nhún nhường, nịnh bợ. Quả nhiên Quan Vũ trúng đòn tâm lý, tỏ ra khinh thường Lục Tốn và bắt đầu rút dần quân đội từ Kinh Châu điều động lên chiến trường Phàn Thành đối phó với Tào Tháo.
Ngay sau khi nghe tin, Lã Mông lập tức hành động. Ông cho hóa trang thuyền chiến thành thuyền buôn, quân tinh nhuệ đều mặc áo trắng đóng giả làm thương nhân tránh bão nhằm che mắt quân đội Kinh Châu phòng thủ dày đặc bên sông. Lã Mông lại cho người mang gốm sứ, lụa là, vàng bạc đút lót cho viên tướng trấn giữ để được neo đậu ở lại bến vào lúc đêm khuya ít phòng bị nhất.
Trong khi Quan Vũ vẫn đang bị cầm chân ở Phàn Thành phía bắc, Quân của Lã Mông đã lẳng lặng men theo dọc sông Trường Giang đến tận thành Kinh Châu. Lã Mông cho một toán quân tinh nhuệ lên thành bắt sống toàn bộ lính trấn thủ. Sau đó thay đồ quân Hán vào quân mình và tiến đến Kinh Châu đòi vào thành, khi cổng thành hạ xuống cũng là lúc Kinh Châu thất thủ. Toàn bộ quân đội của Lã Mông đã vượt qua phòng tuyến tuần tra của Quan Vũ mà không hề bị phát hiện.
Lã Mông phục binh bên ngoài thành, chờ đám lính trá hàng mở được cổng thành rồi ùa vào.
Đây chính là kế “Bạch y độ giang” (áo trắng qua sông) kinh điển đã ghi danh Lã Mông vào sử sách. Còn Quan Vũ, không thể đánh chiếm được Phàn Thành, phải lui binh về, giữa đường nghe tin Kinh Châu thất thủ, kế cùng phải chạy ra Mạch Thành. Trên đường, quân Ngô bày ổ mai phục bắt sống Quan Vũ rồi xử trảm ông.
Gia Cát Lượng dùng “thuyền cỏ mượn tên” khéo lừa Tào Tháo
Năm 208, Tào Tháo điểm 83 vạn quân tiến xuống phía nam với tham vọng thống nhất Trung Quốc. Quân nước Ngụy rất hùng mạnh, tràn đầy khí thế sau những chiến thắng liên tiếp ở miền bắc, đặc biệt là sau khi tiêu diệt 70 vạn quân Viên Thiệu. Khi tiến đến bờ sông Trường Giang, quân Tào cắm trại, huênh hoang gửi lời thách đấu tới cả Giang Đông, khi ấy đang ở dưới quyền cai trị của Tôn Quyền.
Tào Tháo xua quân xuống Giang Nam, viết thư dụ Tôn Quyền đầu hàng.
Trước áp lực ngày càng lớn của Tào Tháo, Lưu Bị và Tôn Quyền buộc phải kết thành liên minh. Gia Cát Lượng, quân sư của Lưu Bị thân hành sang sông đến phối hợp tác chiến cùng Chu Du, Đại đô đốc của Đông Ngô. Tuy nhiên, các tướng Đông Ngô thường ghen tị với tài năng của Gia Cát Lượng nên nhiều lần bày kế hãm hại ông.
Một lần, họ nói rằng để đối phó với quân phương Bắc cần 10 vạn mũi tên trong vòng 10 ngày và yêu cầu Gia Cát Lượng làm giúp. Gia Cát Lượng ung dung nhận lời, lập quân lệnh trạng và hứa chỉ cần 3 ngày là đáp ứng đủ.
Ghen tỵ trước tài năng của Gia Cát Lượng, sợ rằng với một người xuất chúng thế này thì sau này sẽ gây hại cho mình, nên tướng lĩnh Đông Ngô bày kế hại ông. (Internet).
Gia Cát Lượng dành 2 ngày đầu chuẩn bị trong bí mật. Ông huy động 20 chiếc thuyền và bố trí 30 binh sĩ trên mỗi chiếc thuyền. Sau đó xếp quanh nhóm lính thật là các lính giả làm bằng rơm. Vào ngày thứ ba, ông đưa theo người bạn là Lỗ Túc và dẫn các tàu thuyền vượt sông Trường Giang tiến gần thủy trại quân Tào.
Sương mù dày đặc che phủ lòng sông, Gia Cát Lượng lệnh cho lính của mình hò hét và đánh trống trận. Hoảng sợ khi nghe tiếng hò hét và bị che lấp tầm mắt vì sương mù, quân Ngụy bắn tên ồ ạt về phía tiếng động phát ra. Tên bắn ra cắm tua tủa vào những lính rơm trên thuyền. Khi các lính rơm ở một phía bị găm đầy mũi tên, Gia Cát Lượng cho quay thuyền ngược lại để tiếp tục nhận tên.
Gia Cát Lượng bình thản ngồi rót rượu cùng Lỗ Túc trong khi mưa tên đang bắn xối xả vào một bên thuyền. (Ảnh: Internet)
Cuối cùng, sau khi ước lượng rằng đã lấy đủ 10 vạn mũi tên, Gia Cát Lượng ra lệnh các thuyền chở tên quay trở về. Các tướng lĩnh nước Ngô ra đón ông trong hổ thẹn. Nhờ kế hoạch hoàn hảo của Gia Cát Lượng, quân đội Thục – Ngô có đầy đủ vũ khí để sẵn sàng cho cuộc chiến tranh. Sau đó trận Xích Bích diễn ra, 10 vạn mũi tên góp phần quan trọng cho chiến thắng của đội quân phương Nam. Họ đã chặn đứng sự bành trướng của Tào Tháo và khiến Thừa tướng nhà Ngụy phải thua chạy dài với tàn quân ít ỏi.
Tư Mã Ý giả ốm lừa được Tào Sảng
Sau khi đẩy lui được những cuộc tấn công của Gia Cát Lượng, Tư Mã Ý trở về triều đình với tư cách của một công thần. Vua Ngụy là Tào Duệ hết sức tin dùng ông, phong ông đến chức Phiêu kỵ đại tướng quân. Trước khi chết, Tào Duệ còn giao cho Tư Mã Ý (cùng với Tào Sảng) là phụ chính đại thần, giúp việc cho con nhỏ của mình là Tào Phương.
Khi ấy, quyền lực triều Ngụy do Tư Mã Ý và Tào Sảng cùng nắm giữ. Tuy nhiên, bằng những thủ đoạn chính trị, Tào Sảng dần loại bỏ hết thực quyền của Tư Mã Ý, thường tự mình đưa ra mọi quyết định mà không cần hỏi Ý. Về danh nghĩa, Tư Mã Ý vẫn là thủ lĩnh đứng đầu quân đội nhưng vai vế chính trị của ông trong triều đình thì chỉ là “hữu danh vô thực”. Tào Sảng đã nắm hết mọi quyền bính.
Tư Mã Ý suy tư khi nghĩ đến thực quyền không nằm trong tay mình mà nằm trong tay Tào Sảng. (Ảnh: Internet).
Năm 247, Tư Mã Ý cáo ốm, xin về quê dưỡng bệnh. Nhưng Tào Sảng vẫn luôn đề phòng ông. Tào Sảng cử tâm phúc của mình là Lý Thắng nhậm chức thứ sử Kinh Châu, trên đường đi ghé qua thăm dò thái độ của Tư Mã Ý. Khi Lý Thắng đến nơi, Tư Mã Ý run rẩy lấy tay với áo, thì áo rơi tuột xuống đất. Ông lại đưa tay ra hiệu với người hầu, tỏ ý muốn uống nước. Người hầu bưng lên một bát cháo, Tư Mã Ý húp từng tí một, nước cháo chảy theo khóe miệng tràn cả xuống ngực.
Trông thấy cảnh ấy, Lý Thắng mừng khấp khởi trong lòng, cho rằng Tư Mã Ý đã là đồ bỏ đi, không còn gì đáng sợ nữa. Trong cuộc nói chuyện sau đó, Tư Mã Ý còn giả ngây, giả điếc khi 3 lần cố tình đọc sai nơi mà Lý Thắng sắp đến nhậm chức: Kinh Châu lại đọc thành Tinh Châu. Tư Mã Ý cũng gọi 2 con là Tư Mã Sư và Tư Mã Chiêu ra để gửi gắm. Lý Thắng hoàn toàn tin rằng Tư Mã Ý bệnh nặng sắp lìa đời.
Ý giả ốm nặng, Lý Thắng ‘mắt thấy tai nghe’ nên rất đắc ý.
Sau khi ra về, Lý Thắng vội vã đến thẳng đến nhà Tào Sảng thuật lại mọi chuyện. Tào Sảng nghe xong cảm thấy rất khoan khoái, từ đó càng không coi Tư Mã Ý là gì, ra sức lộng quyền hơn trước. Nhưng đó cũng là lúc tai họa ập xuống đầu ông.
Năm 249, Tư Mã Ý quyết định ra tay. Lợi dụng lúc Tào Sảng đang hộ giá hoàng đế Tào Phương đi thăm mộ tiên đế Tào Duệ, Tư Mã Ý phát động một cuộc binh biến trong kinh thành. Ông cho đóng tất cả cổng thành Lạc Dương, gửi biểu tâu lên Tào Phương, sai người đưa thư vạch tội Tào Sảng, đề nghị trừng trị.
Tào Sảng nhận được tin Ý đã khống chế Đô Thành, quân đội đã áp sát mình, đau khổ vì thời thế đã qua đi…
Tào Sảng được tin thì hoảng loạn vô cùng, không biết phải xoay sở ra sao. Mưu sĩ là Hoàn Phạm hiến kế khuyên Tào Sảng mang theo hoàng đế Tào Phương chạy sang Hứa Xương rồi phát hịch kêu gọi quân binh các nơi đánh Tư Mã Ý. Nhưng Tào Sảng cứ ngần ngừ không quyết, cả đêm chống kiếm nước mắt ngắn dài. Cuối cùng, Tào Sảng ngây thơ tin theo lời dụ hàng của Tư Mã Ý (hứa sẽ giữ nguyên mọi chức vụ cho Tào Sảng). Chẳng ngờ sau đó, Tư Mã Ý nuối lời, ra lệnh hành quyết Tào Sảng, tru di 9 họ vì tội khi quân.
.
Tào Sảng rất tin Ý, nhưng niềm tin ấy đã dẫn ông đến gần với cái chết mà ông chẳng thể nào ngờ được.
Mưu kế của Tư Mã Ý sau này được người đời truyền nhau với cái tên “giả si bất điên” (giả ngu mà không hề điên). Muốn dụng thành kế đó phải cực kỳ khéo léo, diễn xuất tài tình. Tào Sảng vô mưu đương nhiên bị cho vào tròng. Tư Mã ý quả không hổ danh “kỳ phùng địch thủ” của Gia Cát Lượng. Tuy tài trí kém Lượng, nhưng một đời rèn luyện ở thao trường với Thừa tướng đại tài nhà Thục Hán cũng đủ để Tư Mã ý trui rèn được bản lĩnh, trí khôn. Sau này, Tư Mã ý chính là người đặt những viên gạch đầu tiên cho nhà Tấn thống nhất Trung Nguyên sau này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét