Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2014

Chính Khí ca – Tống – Văn Thiên Tường

正氣歌 -文天祥


天地有正氣, 
雜然賦流形, 
下則為河岳, 
上則為日星, 
於人曰浩然, 
沛乎塞蒼冥, 
皇路當清夷, 
含和吐明庭, 
時窮節乃見, 
一一垂丹青。 
在齊太史簡, 
在晉董狐筆, 
在秦張良椎, 
在漢蘇武節, 
為嚴將軍頭, 
為嵇侍中血, 
為張睢陽齒, 
為顏常山舌, 
或為遼東帽, 
清操厲冰雪, 
或為出師表, 
鬼神位壯烈, 
或為渡江楫, 
慷慨吞胡羯, 
或為擊賊笏, 
逆豎頭破裂。 
是氣所磅礡, 
凜烈萬古存, 
當其貫日月, 
生死安足論, 
地維賴以立, 
天柱賴以尊, 
三綱實系命, 
道義為之根。 
嗟予遘陽九, 
隸也實不力, 
楚囚纓其冠, 
傳車送窮北, 
鼎鑊甘如飴, 
求之不可得, 
陰房闃鬼火, 
春院閟天黑, 
牛驥同一皂, 
雞棲鳳凰食, 
一朝蒙霧露, 
分作溝中瘠, 
如此再寒暑, 
百沴自僻易, 
哀哉沮洳場, 
為我安樂國, 
豈有他謬巧, 
陰陽不能賊, 
顧此耿耿在, 
仰視浮雲白, 
悠悠我心憂, 
蒼天曷有極! 
哲人日已遠, 
典刑在夙昔, 
風簷展書讀, 
古道照顏色。 


Chính khí ca -Văn Thiên Tường


Thiên địa hữu chính khí 
Tạp nhiên phú lưu hình 
Hạ tắc vi hà nhạc 
Thượng tắc vi nhật tinh 
Ư nhân viết hạo nhiên 
Bái hồ tắc sương minh 
Hoàng lộ đương thanh di 
Hàm hoà thổ minh đình 
Thời cùng tiết nãi kiến
Nhất nhất thuỳ đan thanh 
Tại Tề thái sử giản 
Tại Tấn Đổng Hồ bút 
Tại Tần Trương Lương chuỳ 
Tại Hán Tô Vũ tiết. 
Vi Nghiêm tướng quân đầu 
Vi Kê thị trung huyết 
Vi Trương Tuy Dương xỉ 
Vi Nhan Thường sơn thiệt 
Hoặc vi Liêu Đông mạo 
Thanh tháo lệ băng tuyết 
Hoặc vi xuất sư biểu 
Quỷ thần khấp tráng liệt 
Hoặc vi độ giang tiệp 
Khẳng khái thôn Hồ Hiệt 
Hặc vi kích tặc hốt 
Nghịch thụ đầu phá liệt 
Thị khí sở bàng bạc 
Lẫm liệt vạn cổ tồn 
Đương kỳ quán nhật nguyệt 
Sinh tử an túc luân 
Địa duy lại dĩ lập 
Thiên trụ lại dĩ tôn 
Tam cương thực hệ mệnh 
Đạo nghĩa vi chi căn. 
Ta dư cấu dương cứu 
Lệ dã thực bất lực 
Sở tù anh kỳ quan 
Truyền xa tống cùng bắc 
Đỉnh hoạch cam như di 
Cầu chi bất khả đắc 
Âm phòng khích quỷ hỏa 
Xuân viện bí thiên hắc 
Ngưu ký đồng nhất tạo 
Kê thê phượng hoàng thực 
Nhất triêu mông vụ lộ 
Phân tác câu trung tích 
Như thử tái hàn thử 
Bách lệ tự tích dịch 
Ai tai thư như trường 
Vi ngã an lạc quốc 
Khởi hữu tha mậu xảo 
Âm dương bất năng tặc 
Cố thử cảnh cảnh tại 
Ngưỡng thị phù vân bạch 
Du du ngã tâm bi 
Thương thiên hạt hữu cực 
Triết nhân nhật dĩ viễn 
Điển hình tại túc tích 
Phong thiềm triển thư độc 
Cổ đạo chiếu nhan sắc. 


Bài hát chính khí (Người dịch: Hoàng Tạo) 


Trời đất có chính khí 
Tỏa ra cho muôn loài 
Là sông núi dưới đất 
Là trăng sao trên trời 
Đầy rẫy cả vũ trụ 
Khí hạo nhiên của người 
Gặp cảnh đời bình trị 
Triều thịnh vang lời vui 
Khi cùng, tiết tháo rõ 
Sử xanh ghi đời đời. 
Ở Tề, sách Thái Sử 
Ở Tấn, bút Đổng Hồ 
Ở Tần, chùy Bác Lãng 
Ở Hán, cờ họ Tô 
Đầu Nghiêm thách trước giặc 
Máu Kê trên áo vua 
Răng Trương công chửi địch 
Lưỡi Kiều Khanh mắng thù. 
Hoặc là mũ Liêu Đông 
Vẻ băng tuyết phau phau 
Hoặc là biểu “Ra quân” 
Lẫm liệt quỷ thần sầu 
Hoặc qua sông gõ nhịp 
Khảng khái nuốt quân Hồ 
Hoặc giật hốt đánh giắc 
Phường tiếm nghịch toang đầu. 
Khi ấy tràn ngập tới 
Oai nghiêm muôn thuở còn 
Khi đã vượt nhật nguyệt 
Sống thác chuyện con con! 
Khuôn đất nhờ đó vững 
Cột trời nhờ đó còn 
Ba giường được gìn giữ 
Đạo nghĩa có gốc nguồn. 
Xót ta gặp vận ách 
Tướng sĩ thực hèn nhát 
Dải mũ buộc thân tù 
Xe chở lên cực bắc 
Ninh nấu cũng cam lòng 
Còn để ta mong mãi 
Phòng sâu ma lập lòe 
Viện xuân thành ngục tối! 
Ngựa giỏi nhốt cùng trâu 
Chuồng gà, phượng nhặt thóc 
Thân này khi gió sương 
Đành rãnh ngòi lăn lóc 
Thế mà hai năm qua 
Tránh xa bao khí độc 
Thương ôi! Chỗ lội lầm! 
Lại sống yên tối sớm 
Phải đâu khôn khéo gì 
Âm dương không dám phạm 
Vằng vặc tấm cô trung 
Ngẩng nhìn mây trắng nổi 
Buồn thay! Nỗi lòng ta 
Trời xanh cao vòi vọi! 
Thánh hiền khuất lâu rồi 
Khuôn phép vẫn không mất 
Hiên gió mở sách coi 
Gương xưa soi trước mặt. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét