Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2016

Lời trăn trối của Steve Jobs và chiếc giường đắt nhất thế giới

 Tình yêu có thể đi một ngàn dặm. Cuộc sống không có giới hạn. Đi nơi bạn muốn đi. Đạt chiều cao mà bạn muốn tiếp cận. Đó là tất cả trong trái tim của bạn và trong tay của bạn.
Steve Jobs (24/02/1955 - 05/10/2011) là doanh nhân và nhà sáng chế người Mỹ. Ông là đồng sáng lập và là linh hồn của tập đoàn công nghệ máy tính danh tiếng Apple. Cuộc đời và cống hiến của Jobs đã trở thành nguồn cảm hứng cho chúng ta ngày nay. Trong bài diễn văn nổi tiếng tại Đại học Stanford năm 2005, ông đã nói về cái chết rằng: “Khi 17 tuổi, tôi đọc ở đâu đó rằng: “Nếu sống mỗi ngày như thể đó là ngày cuối cùng, một ngày nào đó bạn sẽ đúng”. Điều đó gây ấn tượng với tôi và 33 năm qua, tôi nhìn vào gương mỗi sáng và hỏi: “Nếu hôm nay là ngày cuối của cuộc đời mình, mình có muốn làm những gì định làm hôm nay không?”. Nếu câu trả lời là “Không” kéo dài trong nhiều ngày, đó là lúc tôi biết tôi cần thay đổi.” Năm 2011, cả thế giới bàng hoàng trước sự ra đi của nhà sáng chế thiên tài. Cô em gái Mona của ông đã chia sẻ trước khi rời bỏ thế giới Jobs đã nói 3 lần: “ ”Oh Wow. Oh Wow. Oh Wow.

LỜI TRĂN TRỐI CỦA STEVE JOBS

Tôi đạt đến đỉnh cao của sự thành công trong thế giới kinh doanh.Trong mắt của người khác, cuộc sống của tôi là một mẫu mực của sự thành công.
Tuy nhiên, ngoài công việc, tôi có rất ít niềm vui. Cuối cùng, sự giàu có chỉ là một thực tế của cuộc sống mà tôi phải làm quen với nó. Tại thời điểm này, nằm trên giường bệnh và nhớ lại toàn bộ cuộc sống của tôi, tôi nhận ra rằng tất cả các công nhận và sự giàu có mà tôi mất rất nhiều nhiều năm tháng tuổi trẻ để có niềm tự hào đó, đã dần và trở nên vô nghĩa khi đối mặt với cái chết sắp xảy ra. Trong bóng tối, tôi nhìn vào ánh sáng màu xanh lá cây từ các máy hỗ trợ cuộc sống và nghe những âm thanh ồn ào cơ khí, tôi có thể cảm thấy hơi thở của thần chết về gần hơn… Bây giờ tôi biết, khi chúng ta đã tích lũy đủ giàu có để kéo dài thời gian sống của chúng ta, chúng ta nên theo đuổi những vấn đề khác mà không liên quan đến sự giàu có… Nên là cái gì đó quan trọng hơn:
Có lẽ mối quan hệ, có lẽ nghệ thuật, có lẽ là một ước mơ từ ngày còn trẻ…
Không ngừng theo đuổi sự giàu có sẽ biến cuộc đời bạn thành 1 vòng xoáy hỗn độn, giống như tôi. Chúa đã cho chúng ta các giác quan để cho chúng ta cảm nhận được tình yêu trong trái tim của tất cả mọi người, không phải là ảo tưởng mang lại bởi sự giàu có. Sự giàu có tôi đã giành chiến thắng trong cuộc sống của tôi, tôi không thể mang theo khi xuống mồ. Những gì tôi có thể mang lại chỉ là những kỷ niệm đọng lại bởi tình yêu.
Đó là sự giàu có thật sự mà sẽ theo bạn, đi cùng bạn, cho bạn sức mạnh và ánh sáng để đi vào.Tình yêu có thể đi một ngàn dặm. Cuộc sống không có giới hạn. Đi nơi bạn muốn đi. Đạt chiều cao mà bạn muốn tiếp cận. Đó là tất cả trong trái tim của bạn và trong tay của bạn.
Giường đắt nhất trên thế giới là gì? – Đó là “GIƯỜNG BỆNH”…
Bạn có thể sử dụng một người lái xe cho bạn, kiếm tiền cho bạn, nhưng bạn không thể có một người nào đó phải chịu bệnh tật cho bạn. Vật chất bị mất có thể được tìm thấy.
Nhưng có một điều mà không bao giờ có thể được tìm thấy khi nó bị mất – “CUỘC ĐỜI BẠN”.
Khi một người đi vào phòng mổ, anh sẽ nhận ra rằng có một cuốn sách mà anh ta vẫn chưa hoàn thành việc đọc – “CUỐN SÁCH SỨC KHỎE CỦA CUỘC SỐNG ĐÃ BAN”.
Cho dù giai đoạn trong cuộc đời chúng ta đang ở có huy hoàng tới mức nào, với sự tàn phá của thời gian, chúng ta sẽ phải đối mặt với những ngày đi xuống.
Hãy trân trọng tình yêu cho gia đình bạn, tình yêu dành cho người bạn đời của bạn, tình yêu cho bạn bè…
Hãy đối xử với mình tốt. Trân trọng những người khác.

THE LAST WORDS OF STEVE JOBS

I reached the pinnacle of success in the business world. In others’ eyes, my life is an epitome of success.
However, aside from work, I have little joy. In the end, wealth is only a fact of life that I am accustomed to. At this moment, lying on the sick bed and recalling my whole life, I realize that all the recognition and wealth that I took so much pride in, have paled and become meaningless in the face of impending death. In the darkness, I look at the green lights from the life supporting machines and hear the humming mechanical sounds, I can feel the breath of god of death drawing closer…Now I know, when we have accumulated sufficient wealth to last our lifetime, we should pursue other matters that are unrelated to wealth… Should be something that is more important:
Perhaps relationships, perhaps art, perhaps a dream from younger days…

Non-stop pursuing of wealth will only turn a person into a twisted being, just like me.God gave us the senses to let us feel the love in everyone’s heart, not the illusions brought about by wealth.The wealth I have won in my life I cannot bring with me. What I can bring is only the memories precipitated by love.

That’s the true riches which will follow you, accompany you, giving you strength and light to go on.Love can travel a thousand miles. Life has no limit. Go where you want to go. Reach the height you want to reach. It is all in your heart and in your hands.
What is the most expensive bed in the world? Sick bed…
You can employ someone to drive the car for you, make money for you but you cannot have someone to bear the sickness for you.
Material things lost can be found. But there is one thing that can never be found when it is lost – Life.
When a person goes into the operating room, he will realize that there is one book that he has yet to finish reading – Book of Healthy Life.
Whichever stage in life we are at right now, with time, we will face the day when the curtain comes down.
Treasure Love for your family, love for your spouse, love for your friends.
Treat yourself well.
Cherish others.

Thứ Hai, 22 tháng 2, 2016

NGUYỆT NHƯƠNG NHẤT KÊ 月攘一鸡

NGUYỆT NHƯƠNG NHẤT KÊ
月攘一鸡
MỖI THÁNG ĂN TRỘM MỘT CON GÀ

Giải thích: ví với việc không kịp thời sửa chữa sai lầm
Xuất xứ: Chiến Quốc . Mạnh Kha 孟轲Mạnh Tử - Đằng Văn Công hạ 孟子 - 滕文公下.

          Ngày trước có một người lười nhác, suốt cả ngày chỉ rong chơi phóng đãng.
          Gà của hàng xóm chỉ cần chạy vào sân nhà anh ta, anh ta sẽ bắt làm thịt ăn ngay, hàng xóm sang tìm, anh ta liền thề thốt mắng mỏ:
          Cổng luôn đóng, gà làm sao có thể chạy sang được?
          Ăn lâu đâm ghiền, một ngày không ăn thịt gà anh ta cảm thấy khó chịu trong người, nhưng không phải ngày nào cũng đều có gà chạy sang. Thế là, anh ta đợi lúc trời tối, mặc áo thật rộng, giả vờ như không có việc gì, tìm cách đến gần chuồng gà, nắm lấy cổ gà lấy hết sức vặn một cái rồi bỏ vào bao giấu trong áo rộng, hớn hở ra đi.
          Một lần nọ, khi anh ta đi trộm gà, cuối cùng người ta bắt được tại trận, đưa lên nha môn bị đánh cho một trận nhừ tử, anh ta đi xiêu vẹo về nhà, nằm trên giường rên rỉ.
          Lúc bấy giờ có một bà lão tốt bụng đến khuyên, nói với anh ta rằng:
          Con à, với sức lực trai tráng, thích ăn thịch gà thì tự mình nuôi lấy gà. Ăn trộm gà không phải là việc làm chân chính,  sao có thể làm như thế?
          Anh ta bèn khóc không thôi, nói rằng:
          Con nhất định sẽ sửa chữa cái sai trước đây. Đầu tiên giảm bớt số lượng, trước đây vốn mỗi ngày trộm một con, nay mỗi tháng trộm một con (nguyệt nhương nhất kê月攘一鸡) đợi đến năm sau giảm tiếp rồi cuối cùng không trộm nữa.
          Bà lão bảo rằng:
          Nếu đã biết ăn trộm là không đúng thì nhanh chóng sửa ngay, cần gì phải đợi đến năm sau.

Chú của người dịch
          今有人日攘其鄰之雞者或告之曰: “是非君子之道.” : “請損之月攘一雞以待來年然後已.” 如知其非義斯速已矣何待來年?
                                      (孟子 - 滕文公下)

          Kim  hữu nhân nhật nhương kì lân chi kê giả, hoặc cáo chi viết: “Thị phi quân tử chi đạo.” Viết: “Thỉnh tổn chi, nguyệt nhương nhất kê, dĩ đãi lai niên nhiên hậu dĩ.” Như tri kì phi nghĩa, tư tốc dĩ hĩ, hà đãi lai niên?
                                                                     (Mạnh Tử - Đằng Văn Công hạ)

          Nay có người cứ hàng ngày ăn trộm gà của hàng xóm, có người nói cho anh ta biết: “Đó không phải là đạo của người quân tử.” Anh ta đáp rằng: “Xin giảm bớt, mỗi tháng ăn trộm một con, đợi đến năm sau sẽ dừng hẳn.”
          Nếu biết việc đó là phi nghĩa thì nhanh chóng dừng lại ngay, sao lại phải đợi đến sang năm?

Chủ Nhật, 21 tháng 2, 2016

Phương pháp phân tích – tổng hợp


Phân tích trước hết là phân chia cái toàn thể của đối tượng nghiên cứu thành những bộ phận, những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn để nghiên cứu, phát hiện ra từng thuộc tính và bản chất của từng yếu tố đó, và từ đó giúp chúng ta hiểu được đối tượng nghiên cứu một cách mạch lạc hơn, hiểu được cái chung phức tạp từ những yếu tố bộ phận ấy.
Khi chúng ta đứng trước một đối tượng nghiên cứu, chúng ta cảm giác được nhiều hiện tượng đan xen nhau, chồng chéo nhau làm lu mờ bản chất của nó.Vậy muốn hiểu được bản chất của một đối tượng nghiên cứu chúng ta cần phải phân chia nó theo cấp bậc.
Nhiệm vụ của phân tích là thông qua cái riêng để tìm ra được cái chung, thông qua hiện tượng để tìm ra bản chất, thông qua cái đặc thù để tìm ra cái phổ biến.
Khi phân chia đối tượng nghiên cứu cần phải:
+ Xác định tiêu thức để phân chia.
+ Chọn điểm xuất phát để nghiên cứu.
+ Xuất phát từ mục đích nghiên cứu để tìm thuộc tính riêng và chung.
Bước tiếp theo của phân tích là tổng hợp. Tổng hợp là quá trình ngược với quá trình phân tích, nhưng lại hỗ trợ cho quá trình phân tích để tìm ra cái chung cái khái quát.
Từ những kết quả nghiên cứu từng mặt, phải tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra được bản chất, quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu.
Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp gắn bó chặt chẽ quy định và bổ sung cho nhau trong nghiên cứu, và có cơ sở khách quan trong cấu tạo, trong tính quy luật của bản thân sự vật. Trong phân tích, việc xây dựng một cách đúng đắn tiêu thức phân loại làm cơ sở khoa học hình thành đối tượng nghiên cứu bộ phận ấy, có ý nghĩa rất quan trọng. Trong nghiên cứu tổng hợp vai trò quan trọng thuộc về khả năng liên kết các kết quả cụ thể( có lúc ngược nhau) từ sự phân tích, khả năng trìu tượng, khái quát nắm bắt được mặt định tính từ rất nhiều khía cạnh định lượng khác nhau.
Với các ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật do tính chính xác quy định, mặt phân tích định lượng có vai trò khá quyết định kết quả nghiên cứu. Quá trình tổng hợp, định tính ở đây hoặc giả là những phán đoán, dự báo thiên tai, chỉ đạo cả quá trình nghiên cứu, hoặc giả là những kết luận rút ra từ phân tích định lượng.Trong các ngành khoa học xã hội - nhân văn, sự hạn chế độ chính xác trong phân tích định lượng làm cho kết quả nghiên cứu lệ thuộc rất nhiều vào tổng hợp, định tính. Song chính đặc điểm này dễ làm cho kết quả nghiên cứu bị sai lệch do những sai lầm chủ quan duy ý chí.

DANH NGÔN CỦA THOMAS EDISON


Thomas Edison

(11/2/1847 – 18/10/1931)
www.tudiendanhngon.vn - Danh nhân - Thomas Edison
Thomas Alva Edison ( – ) là nhà phát minh và thương nhân người Mỹ. Ông đã phát triển nhiều thiết bị có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống trong thế kỷ 20 như máy quay đĩa, máy quay chuyển động và bóng đèn. Được đặt danh hiệu "Thầy phù thủy ở Menlo Park", ông là một trong những nhà phát minh đầu tiên ứng dụng các nguyên tắc sản xuất hàng loạt và lao động tập thể quy mô lớn vào quá trình sáng tạo, và vì thế, ông thường được coi là người đã tạo ra phòng nghiên cứu công nghiệp đầu tiên.
Edison là một nhà phát minh tài ba, với 1093 bằng sáng chế tại Mỹ, cũng như nhiều bằng sáng chế tại Anh, Pháp, Đức. Các sáng chế của ông về bóng đèn điện và các ứng dụng điện khác, các thiết bị thu âm và thu hình, có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống, và là khởi điểm của những ngành công nghiệp mới trên khắp thế giới.
Trong cuộc đời, ông đã giành được rất nhiều giải thưởng cho những phát minh của mình, gồm Huân chương Matteucci Medal (1887) - giải thưởng Ý đặt theo tên Carlo Matteucci dành cho các nhà vật lý, Huân chương John Scott (1889) - huân chương dành cho những người với các phát minh làm cải thiện đáng kể 'sự thoải mái, sức khỏe và hạnh phúc của nhân loại', Huân chương Edward Longstreth (1899) của Viện FranklinHuân chương John Fritz (1908) của Hiệp hội Cộng đồng Kỹ thuật Mỹ dành cho "những thành tựu khoa học công nghệ vượt trội", Huân chương Edward Longstreth (1915) của Viện Franklin vì những phát kiến đóng góp cho nền móng của nền công nghiệp cũng như cho lợi ích của nhân loại, Huân chương Phục vụ xuất sắc Hải quân của Hải quân Mỹ (1920)Huân chương Edison (1923) - do Hiệp hội Kỹ sư điện Mỹ lập ra theo tên ông và ông là người đầu tiên nhận được, Huân chương Vàng Quốc hội (1928).
Sau khi mất, năm 1983, Quốc hội Hoa Kỳ đã lập ngày 11/2, ngày sinh của Edison, thành Ngày của nhà Phát minh trên toàn quốc. Ông cũng được vinh danh với giải Grammy Kỹ thuật vào năm 2010.


DANH NGÔN CỦA THOMAS EDISON


Tôi chưa thất bại. Tôi chỉ là đã tìm ra 10,000 cách không hoạt động.
I have not failed. I've just found 10,000 ways that won't work.


Thiên tài một phần trăm là cảm hứng và chín mươi chín phần trăm là mồ hôi.
Genius is one percent inspiration and ninety-nine percent perspiration.


Tôi chưa bao giờ vô tình làm điều gì, cũng như không phát minh nào của tôi đến từ sự vô tình; chúng đến từ lao động.
I never did anything by accident, nor did any of my inventions come by accident; they came by work.


Tôi tìm thấy lạc thú lớn nhất, và cũng như phần thưởng, nằm trong công việc vượt qua điều mà thế giới gọi là thành công.
I find my greatest pleasure, and so my reward, in the work that precedes what the world calls success.


Cái gì không bán được thì tôi không muốn sáng chế. Doanh số là bằng chứng về tính hữu dụng, và tính hữu dụng là thành công.
Anything that won't sell, I don't want to invent. Its sale is proof of utility, and utility is success.


Tất cả mọi thứ sẽ đến với người biết hối hả trong khi chờ đợi.
Everything comes to him who hustles while he waits.


Bất mãn là sự sự cần thiết đầu tiên cho tiến bộ.
Discontent is the first necessity of progress.

Những ý tưởng lớn bắt nguồn từ cơ bắp.
Great ideas originate in the muscles.


Giá trị của một ý tưởng nằm ở cách sử dụng nó.
The value of an idea lies in the using of it.


















Địa chủ hiện đại, tại sao không?

Địa chủ hiện đại, tại sao không?

Lê Anh Tuấn
- Hơn nửa thế kỷ qua, tên gọi giới địa chủ, mặc nhiên được xem như một giai cấp gắn liền với bóc lột tá điền, cường hào ác bá, ăn chơi hưởng thụ, dốt nát hợm hĩnh, cấu kết với các thế lực thực dân phong kiến cầm quyền, chống phá cách mạng...
Ngày nay, tình thế kinh tế - xã hội trong và ngoài nước đã có nhiều thay đổi, nhưng quan niệm về địa chủ dường như vẫn chưa thay đổi kịp. Có lẽ, đã đến lúc nên nhìn nhận người địa chủ như một thành phần sản xuất trong xã hội, tương tự như giới doanh nhân, chủ đầu tư, nhà tư bản, chủ tịch tập đoàn...
Địa chủ (Landowner hay landlord), gọi nôm na một chút, là người sở hữu đất đai. Nói dông dài hơn một chút, tài sản tích lũy lớn nhất của một địa chủ chính là ruộng đất mà họ tư hữu và kinh nghiệm bản thân hoặc gia đình, qua quá trình khai thác tài nguyên thiên nhiên và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực để thu lợi từ thành quả canh tác nông nghiệp trên mảnh đất của họ. Đất đai có được của một địa chủ, phải là một quá trình gom tụ ít nhất hơn một thế hệ đời người.
Với định nghĩa như vậy, gia sản và công việc của người địa chủ cũng chỉ là một phần nhỏ nhoi nếu so sánh với một thương gia hiện nay có tầm buôn bán xuyên vùng hoặc xuyên quốc gia, hoặc một ông chủ đang điều hành các khu sản xuất công nghiệp với quy mô hàng trăm héc ta, hàng loạt nhà máy, vài trăm chiếc xe vận tải và hàng ngàn công nhân mà hầu hết bản thân các công nhân này đều có gốc gác đâu đó là những người nông dân hoặc người dân sống vùng nông thôn, miền núi hoặc vùng ven đô.
Hơn nửa thế kỷ trước ở Việt Nam, khái niệm địa chủ rất khác xa nhau giữa miền Bắc và miền Nam. Ở vùng châu thổ sông Hồng hoặc vùng đồi núi phía Tây Bắc, trong thời kỳ cải cách ruộng đất, có thể chỉ vài sào đất đã bị quy là địa chủ bóc lột. Trong khi đó, ở vùng châu thổ sông Cửu Long, có vài ba công đất làm ruộng thì vẫn thuộc nhóm bần nông. Xưa kia vùng Nam bộ, một địa chủ phải có hàng trăm thậm chí vài ngàn héc ta là chuyện bình thường. Cách phân loại, đánh giá khác nhau đã dẫn đến việc nhìn nhận và cư xử cho từng số phận khác nhau.
Từ sau 1975, gần như từ “địa chủ” không tồn tại như một giai cấp hay một thành phần sản xuất trên toàn lãnh thổ Việt Nam, cả sự phân hạng trong các văn bản pháp luật hay sách giáo khoa trong các trường học. Một số từ điển tiếng Việt, danh từ địa chủ được hiểu là “người chiếm hữu nhiều ruộng đất thời phong kiến, bản thân không lao động, sống bằng bóc lột địa tô”.
Định nghĩa này không nói rõ chiếm hữu bao nhiêu diện tích ruộng đất mới gọi là nhiều, khái niệm lao động hoặc không lao động cũng rất mơ hồ, theo tư duy cũ xem lao động chỉ là công việc tay chân, không xem các hoạt động trí óc hoặc điều hành quản trị là lao động. Có thể người địa chủ ngày xưa không trực tiếp làm ruộng nhưng họ vẫn có những hình thức lao động khác như tổ chức sản xuất, chọn mùa vụ, chọn loại cây trồng, đầu tư hệ thống hạ tầng như thủy lợi, chỉnh trang đất đai.
Sự e ngại cho phép nông dân tích tụ ruộng đất để họ không trở thành địa chủ, như đã xảy ra trong một thời kỳ quá dài vừa qua, đang dần dần trở thành một rào cản cần phải tháo gỡ trong bối cảnh cạnh tranh và thách thức lớn trong thời đại hội nhập hiện nay. Xã hội nào, tầng lớp nào, nghề nghiệp nào cũng có những con người xấu - tốt khác nhau. Trong quá khứ có những địa chủ vắt kiệt lao động nông dân, thì cũng nhiều trường hợp “ông chủ đất”, “ông cả” biết thương nông dân nghèo, trọng nghĩa khinh tài, đóng góp hoặc tham gia các phong trào yêu nước, chống ngoại xâm.
Thực tế, trong mỗi thâm tâm của nhiều người nông dân Việt Nam, ai cũng muốn có sự công nhận chính thức ruộng đất mà mình đang sử dụng là tài sản riêng của chính họ, nói cách khác, đó là sự mong muốn có được quyền tư hữu đất đai. Khái niệm này không hề mới, ít nhất ở Việt Nam đã từng thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai trong Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959.
Hiện nay, trên thế giới chỉ còn vài ba nước không thừa nhận quyền tư hữu đất đai như Việt Nam, Trung Quốc, Cuba, Triều Tiên, Lào và vài ba nước còn hiện diện của chế độ quân chủ đều coi đất đai là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể hay sở hữu nhà nước. Công dân chỉ được quyền sử dụng đất đai có định mức diện tích và thời hạn nhất định.
Chính việc xác lập này mà đất đai hiện nay ở nước ta trở nên manh mún, mỗi gia đình chỉ được sử dụng một mảnh đất mà chỉ riêng bản thân họ khó có thể đầu tư sản xuất lớn được. Nhiều mảnh đất gia đình nông dân khi con cái đã lớn lại bị chia nhỏ lẻ hơn, dần dần trở nên vụn vặt. Với một miếng đất nhỏ, người nông dân khó mà phán đoán được nông sản từng mùa họ làm ra sẽ dễ hay khó khi bán ra thị trường cạnh tranh.
Sự bất an trong nông nghiệp và nông thôn khiến nhiều nông dân trẻ chọn con đường bỏ đồng ruộng ra thành thị làm thuê cho giới chủ khác. Cho dù hiện nay, Nhà nước đang có chính sách cho phép thực hiện các “cánh đồng mẫu lớn” (nay đổi thành “cánh đồng lớn”) hoặc một số trang trại để có những diện tích canh tác rộng hơn, sản xuất nông nghiệp theo một quy trình đồng nhất hơn.
Tuy có một số “cánh đồng lớn” chứng tỏ tính hiệu quả cao so với nhiều cánh đồng nhỏ hơn, nhưng cũng khó gia tăng số lượng những cánh đồng như vậy. Vả lại, hiệu quả tài chính từ những “cánh đồng lớn” này phần lớn rơi vào tay những công ty, đại lý bán phân bón, nông dược, dịch vụ nông nghiệp, thu mua chế biến, phân phối nông sản so với thu nhập tăng thêm của nông dân.
Xu hướng tích tụ ruộng đất đang là một xu thế chung trong giai đoạn hiện nay. Nếu được sở hữu nhiều ruộng đất hơn, người nông dân biết tính toán làm ăn, cần cù sẽ dần dần trở nên những trung nông có diện tích canh tác vài chục héc ta, hay trở thành những địa chủ với các đồn điền, trang trại, cánh đồng bao la có diện tích vài ba trăm đến cả ngàn héc ta.
Với diện tích lớn như vậy, người địa chủ sẽ mạnh dạn đầu tư thủy lợi, cơ giới hóa và tối ưu hóa sản xuất theo một dây chuyền sản xuất liên hoàn từ sản xuất nông sản đến thu hoạch, chế biến, phân phối ra thị trường.
Đặc điểm của một địa chủ mới không khác nhiều đặc điểm của một doanh nhân. Họ sẽ mời các kỹ sư ngành nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, công nghệ sinh học, thủy lợi, cơ khí, kinh tế, chế biến làm thuê hoặc tư vấn cho họ.
Họ cũng sẽ biết quý trọng nông dân siêng năng cùng làm việc với mình như chính các người chủ của các công ty công nghiệp cần những công nhân thực thụ.
Người địa chủ biết tính toán chọn lựa cây trồng, vật nuôi nào cần cho thị trường và cũng không phải lo lắng lắm chuyện đua nhau “trồng - nhổ” trong tâm lý hoang mang của những người tiểu nông hiện nay. Nông dân không biết tính toán, thiếu kỹ năng, thiếu vốn, lười biếng sẽ bị đào thải dần và chuyển hóa phù hợp.
Trên thế giới, các cường quốc ổn định và giàu có từ nông nghiệp như Mỹ, Úc, New Zealand, Hà Lan, Thái Lan, Israel, Malaysia đều nhờ phần lớn vào những địa chủ của họ. Tần số các vụ xung đột về quyền lợi giữa địa chủ và nông dân ở các quốc gia này rất ít nếu so sánh giữa chủ tư bản và công nhân hay giữa chủ doanh nghiệp và nhân viên của họ.
Lo ngại người địa chủ mới có khống chế nền kinh tế, khuynh đảo chính trị hay đơn giản hơn là bóc lột tá điền có thể xảy ra hay không?
Điều này gần như không thể xảy ra được trong thể chế và bối cảnh chung hiện nay. Theo tạp chí Forbes, người giàu nhất Việt Nam có tài sản ước tính là 1,7 tỉ đô la Mỹ. Giả sử có một “địa chủ” sở hữu 1.000 héc ta ruộng đất ở ĐBSCL thì dù cố gắng làm ăn canh tác đến mức nào, tài sản của người địa chủ này khó mà vượt qua 10% giá trị tài sản của người giàu nhất hiện nay. Người thu gom đất đai để tổ chức sản xuất, để tránh bị phá sản, cũng phải cân đối một cách nghiêm túc khả năng điều hành của mình và diện tích ruộng vườn cần có.
Địa chủ hiện đại phải thực sự trở thành một “agro-businessperson”, nghĩa là một doanh nhân nông nghiệp. Với giá thành sản xuất ngày càng cao như hiện nay, nhận thức và ý thức tốt hơn, trong bối cảnh gia nhập TPP, xu thế dịch chuyển lao động ngày càng thuận lợi thì người địa chủ không thể là “bản thân không lao động, sống bằng bóc lột địa tô” được. Chính địa chủ lại thành một nhân vật chịu phụ thuộc vào người nông dân, như là một nhân tố quan trọng cho việc phát triển kinh tế của họ. Họ phải tìm cách giữ chân người tá điền, lo cả về bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm xã hội cho người làm thuê của họ.
Trong lịch sử cận đại của thế giới, chưa có trường hợp một địa chủ nào có thể lật đổ được một chế độ cả. Ngược lại, người sở hữu nhiều ruộng đất lại rất mong sự ổn định thể chế, xã hội và kinh tế cho sự tồn tại và phát triển của họ.
Thật là thiếu công bằng khi nhà nước không giới hạn mức đầu tư và có chính sách hỗ trợ lớn trong sản xuất - kinh doanh cho doanh nhân và giới chủ công nghiệp, kể cả ưu đãi đất đai, nhưng lại kiểm soát hạn điền và quyền tư hữu ruộng đất của nông dân.
Trong khi đó những người ra chính sách vẫn còn xem từ địa chủ là xấu, là cấm kỵ. Khó khăn lớn nhất là phải có sự thay đổi tư duy của người quản lý muốn kiểm soát toàn bộ tài nguyên đất đai thay cho giao quyền tự chủ cho người dân. Có lẽ đến một lúc nào đó, các luật lệ liên quan đến quyền sở hữu đất đai sẽ được sửa đổi, danh từ địa chủ sẽ đàng hoàng được thừa nhận trong xã hội. Nói tóm lại, bây giờ trở thành một địa chủ thực thụ thì có gì sai?

Thứ Năm, 18 tháng 2, 2016

Trong đầm gì đẹp bằng sen có phải là “câu ca phản trắc”?

Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.      

     là một bài ca dao hết sức quen thuộc với người Việt xưa nay. Bàn về bài ca dao này, nhà thơ Phùng Quán viết:
Mặc cho câu ca được cả nước lưu truyền
Và đời vẫn tin là ca ngợi phẩm cách của sen
Nhưng tôi vẫn không thể nào tin được
Câu ca này gốc gác tự nhân dân
Bởi câu ca sặc mùi phản trắc
Của những phường bội nghĩa vong ân !
Vốn con cái của giai cấp cùng khổ
Chúng chòi lên cuộc đời quyền lực vàng son
Nghĩ đến mẹ cha chúng xấu hổ
Chúng mưu toan giấu che từ bỏ
Nói xa gần chúng mượn chuyện sen
“Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng tanh hôi mùi bùn”
Tất cả là trong cái chữ “gần”
Chỉ một chữ mà thấu gan, thấu ruột
Những manh tâm bội nghĩa vong ân.
[...]
(“Hoa sen” trích trong Nhớ Phùng Quán, Nxb Trẻ 2003)
     Bài “Hoa sen” của Phùng Quán gợi lên trong ta hình ảnh hoa sen – con người – một đứa con đỏng đảnh, vong ân bội nghĩa. Đất mẹ nghèo khó chắt chiu sinh nở ra sen: đứa con “da trắng tóc dài” đẹp nhất trong đầm – trên đời, đẹp hơn tất cả mọi người. Đứa con xinh đẹp ấy được vật vã sinh ra từ trong gian khó “của giai cấp cùng khổ”. Thế nhưng đứa con xinh đẹp ấy lại tự rời xa đất mẹ, rũ bỏ quá khứ. Nó muốn cắt đứt hoàn toàn mối liên hệ với mẹ cha chỉ vì “xấu hổ”, chỉ vì sợ người đời biết cái nguồn gốc xấu xí “hôi tanh” của mình.
 
     Phải chăng cách tiếp nhận của nhà thơ Phùng Quán về hoa sen là một cách hiểu mới, cách hiểu táo bạo, tiếp cận được thần thái của bài ca? Người đời vẫn thường nhắc“Văn chương tự cổ vô bằng cớ”. Những lập luận, những biện minh của ông, như: Gốc của sen là thăm thẳm bùn đen/ Nhị vàng bông trắng lá xanh là do bùn nuôi dưỡng, Ngay cả hương thanh khiết ta đặt lên bàn thờ cúng/ Cũng là xương thịt của bùn tanh, không phải là không có căn cứ. Cách hiểu này, như ông khẳng định ngay từ đầu: Mặc cho câu ca được cả nước lưu truyền/ Và người đời vẫn tin là ca ngợi phẩm cách của sen nhưng ông vẫn cho rằng: câu ca sặc mùi phản trắc. Cây sen tươi đẹp, hoa sen xinh tươi, thơm ngát, thanh tao lớn lên từ bùn lầy nhưng lại quay lưng với bùn lầy – phủ nhận cội nguồn, “bội nghĩa vong ân”. Và nếu vậy, thì đúng như ông khẳng định, câu ca này không thể ở trong kho báu dân gian. Bởi kho báu dân gian chứa những hòn ngọc quý về ngôn từ lẫn ý tưởng, nên không thể dung chứa “đứa con lạc loài phản trắc”.

     Thế nhưng, dường như với người Việt xưa nay, bài ca dao được cả nước lưu truyền này không hề hàm chứa nghĩa “quay lưng phủ nhận quá khứ”, mà hàm nghĩa “ca ngợi phẩm chất của sen” như nhà thơ Phùng Quán nêu ngay từ khổ mở đầu bài “Hoa sen” của ông. Vậy cách hiểu của “đời” – của người Việt xưa nay – có võ đoán không?

     Mở đầu bài ca dao là một câu hỏi tu từ – hỏi nhưng không phải để hỏi mà là để khẳng định: sen là loài hoa đẹp nhất. Và ngay trong câu hỏi tu từ này, từ đẹp được chọn dùng chứ không phải từ xinh. Đẹp và xinh được xem là từ đồng nghĩa không hoàn toàn vì cả hai đều có nghĩa chỉ đặc trưng của đối tượng được đánh giá tốt, đem lại hứng thú đặc biệt, khiến người ta cảm thấy thích thú, nhưng đẹp được dùng khi đối tượng được đánh giá về cả hình thức lẫn nội dung, phẩm chất. Còn xinh lại chỉ được dùng khi đối tượng được đánh giá là yếu tố bên ngoài, yếu tố hình thức. Chọn từ đẹp, tác giả gửi gắm được những điều mà từ xinh chẳng thể nào bao chứa nổi.

    Kết thúc bài ca dao lại là một câu trần thuật phủ định: Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Từ phủ định chẳng góp phần làm rõ hơn cái vị thế của người nói ở đây. Người nói không phải là sen, không phải là người trong cuộc tự đánh giá về mình mà là người ngoài cuộc đánh giá. Sen không tự nói về mình mà người khác đánh giá về sen. Đây là sự đánh giá khách quan, không mang tính chủ quan. Ngoài ra, thanh âm của từ chẳng – một nguyên âm ngắn (nguyên âm /ă/) cùng với một thanh thấp, ngắn, không bằng phẳng (thanh hỏi) – như góp phần tăng thêm sức nặng cho sự phủ định kia. Từ chẳng đã mang lại những lượng thông tin bổ sung mà từ “không” không thể có được. Sự phủ định này nhằm để khẳng định phẩm chất của sen “đẹp từ hình thức cho tới nội dung, từ dáng vẻ cho tới phẩm cách”.


     Còn từ gần? Gần có phải là điểm thắt và cũng là điểm mở của cái sự chứa chất của những manh tâm bội nghĩa vong ân vì bùn với sen đâu phải chuyện gần, chính là sen mọc lên từ trong đó như nhà thơ Phùng Quán khẳng định? Quay trở lại câu mở đầu, ta thấy tác giả đã khẳng định ngay từ hai chữ đầu tiên trong đầm gì đẹp bằng sen, trong đầm chứ không phải trong đồng. Như vậy, ngay câu mở đầu, chữ mở đầu cũng là một minh chứng cho thấy sen thành thực, không dối trá. Và tiếp theo ở câu cuối, nếu ta thay thế gần bằng trong hoặc bằng giữa thì đều không ổn vì cả hai từ này đều gây phản cảm do chúng phá vỡ cái mạch chung đã có của bài ca dao: trong khiến cho câu ca bị lặp, giữa thì dễ dẫn đến cảm giác sai lôgic do sự máy móc của chính nó mang lại. Hai chữ trong đầm của câu mở đầu và hai chữ gần bùn của câu kết bài cùng cấu trúc câu hỏi tu từ và câu trần thuật phủ định chỉ gợi liên tưởng đến hình ảnh của sen cùng những loài cây khác, liên tưởng đến một ẩn dụ về môi trường, khó dẫn dắt sự suy diễn theo hướng “sen lớn lên từ bùn rồi quay lại phủ nhận bùn”. Sự suy diễn này, nếu có thì chỉ có thể là kết quả của sự áp đặt từ ngoài vào chứ không thể từ câu chữ của câu ca. 

     Thêm vào đó, hai câu giữa bài 'Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng/ Nhị vàng bông trắng lá xanh' là một minh chứng cho sự trung thực, sự thận trọng. Đây là hai câu miêu tả nhưng nội dung thông tin chỉ là một. Nhịp thơ và lối đảo ngược trong cách tả từ ngoài vào: Lá xanh à bông trắng à nhị vàng rồi lại từ trong ra: Nhị vàng à bông trắng à lá xanh khiến người nghe như thấy tác giả đang chỉ ra một cách cụ thể, rạch ròi, phân minh; phân minh đến mức gây cảm giác: người nói đang bóc tách một cách trần trụi, không giấu giếm, không che đậy. Sự bóc tách thành thực ấy càng tôn thêm vẻ đẹp thanh khiết của sen. Khó có thể nói vẻ đẹp tươi tắn, thanh khiết của hoa sen ngời ngời trong từng câu chữ là do sự phối màu tài tình của tác giả hay vì chính bản thân đối tượng sen đẹp, sen xinh mà ra.



     Cách dùng câu hỏi tu từ ngay từ câu mở đầu, lối tả từ lá tới hoa rồi đến nhị và lại đảo ngược từ nhị đến hoa rồi tới lá, kết hợp với câu kết cuối bài theo lối phủ định để mà khẳng định của tác giả dân gian – nhân dân bao đời – cùng hình ảnh bông sen, toà sen chốn Phật đài hay trên bàn thờ của gia đình, trên miếu thờ, đình thờ của dòng họ, xóm làng… đã khiến tuyệt đại bộ phận người Việt xưa cũng như nay đều hiểu bài ca dao ngợi ca vẻ đẹp thanh tao của bông sen, từ đó để ngụ ý ngợi ca phẩm chất cao quý trong sạch của con người. Cảm thức ngôn ngữ cùng với cảm thức văn hoá được thấm nhuần trong huyết quản dường như đã khiến hiếm người Việt, và thậm chí cả người nước ngoài nắm vững ngôn ngữ Việt, văn hoá Việt cũng không hiểu theo nghĩa “bài ca dao hàm chứa thói vô ơn phản trắc…”.

     Mạo muội viết bài viết nhỏ này, người viết mong muốn góp thêm một tiếng nói để góp phần có một cái nhìn công bằng và khách quan khi bình giá bài ca dao Trong đầm gì đẹp bằng sen.
Phạm Hải Lê
(Sinh viên Khoa Ngữ văn, ĐHSP TP HCM)

Không phải IQ, đây mới chính là điều mang lại thành công cho bạn!

Trong một buổi diễn thuyết TED, Tiến sĩ tâm lý học Angela Lee Duckworth hiện đang là giáo sư khoa tâm lý trường Đại học Pennsylvania, Mỹ, và cô chủ yếu nghiên cứu về những yếu tố ảnh hưởng tời thành công của một con người như trí thông minh, gia cảnh cho đến tính cách đã khẳng định "bền chí" là chìa khóa dẫn tới thành công của bạn.
Không phải IQ, đây mới chính là điều mang lại thành công cho bạn!
Bỏ lại công việc tư vấn đầy hứa hẹn, Angela Lee Duckworth trở thành giáo viên dạy toán lớp bảy ở một trường công New York. Cô nhanh chóng nhận ra rằng IQ không phải là điều duy nhất khác biệt ở những học sinh thành giỏi với những học sinh kém.
Trong bài phát biểu trên sân khấu TED vào tháng 4/2013 cô đã chỉ ra chìa khóa giúp chúng ta “giải quyết” mọi vật cản để đi tới thành công.
Cô đã nói:
“Khi tôi 27 tuổi tôi đã từ bỏ công việc đầy thách thức là tư vấn quản lí để đến với một công việc thậm chí còn gian nan hơn: Dạy học. Tôi dạy toán lớp bảy ở trường công New York City. Cũng như những giáo viên khác, tôi soạn câu hỏi và bài kiểm tra. Tôi giao bài tập về nhà cho học sinh. Sau khi thu bài, tôi chấm điểm.
Điều khiến tôi bất ngờ đó là IQ không phải là điểm khác biệt duy nhất giữa học sinh giỏi nhất và học sinh tồi nhất của tôi. Một số học sinh giỏi nhất của tôi không có chỉ số IQ cao ngất ngưởng. Một vài học sinh thông minh nhất của tôi lại không có điểm số cao.
Và điều đó khiến tôi phải suy nghĩ. Những gì bạn phải học ở môn toán lớp bảy, hẳn là rất khó: tỉ số, số thập phân, diện tích của hình bình hành. Nhưng những kiến thức này không phải không thể học được, và tôi chắc chắn mọi học sinh của tôi đều có thể học được những kiến thức đó nếu chúng đủ chăm chỉ trong thời gian dài.
Sau vài năm đi dạy tiếp theo, tôi rút ra kết luận rằng những gì chúng ta cần trong lĩnh vực giáo dục là sự thấu hiểu về học sinh và việc học tập dưới góc độ động lực và góc độ tâm lí. Trong giáo dục, thứ chúng ta biết cách đánh giá chính xác nhất là IQ. Nhưng biết đâu việc bạn có thể học tốt và sống tốt phụ thuộc vào nhiều thứ hơn là khả năng tiếp thu nhanh và dễ dàng?”
Sau khi phát hiện ra điều này, cô nghỉ dạy học và tiếp tục học lên cao học để trở thành 1 bác sỹ tâm lý. Cô bắt đầu nghiên cứu về trẻ em và cả người lớn trong các tình huống khó khăn và thách thức để tìm ra ai là người thành công trong hoàn cảnh đó và tại sao họ lại thành công.
Nhóm nghiên cứu của cô đã chọn nghiên cứu các học viên của học viện quân sự West Point, các giáo viên mới vào nghề ở vùng khó khăn, các nhân viên sale ở công ty tư nhân và các em học sinh tham gia thi chính tả Quốc gia.
Trong mỗi nghiên cứu, cô đều muốn tìm hiểu về tác động nào đã khiến trong cùng một môi trường khó khăn như vậy có người thành công bám trụ lại, có người đạt giải cao, cùng công ty nhưng có người kiếm nhiều tiền hơn người khác.
Và cô đã phát hiện ra: Không phải là vẻ ngoài ưa nhìn, thể lực tốt, cũng không phải là IQ hay trí thông minh xã hội (social intelligence) sẽ báo hiệu cho sự thành công mà chính là sự BẾN CHÍ.
Vậy sự BỀN CHÍ là gì?
Trong câu chuyện ngụ ngôn chạy thi của thỏ và rùa, rùa đã chiến thắng nhờ sự bền lòng, vững chí vì mục tiêu. Chú biết mình chạy chậm nên mải miết chạy, kiên định với mục tiêu về đích của mình.
Bền lòng, vững chí hay bền bỉ cũng chính là chìa khóa dẫn bạn tới thành công bởi theo Angela “Sự bền chí bao gồm lòng đam mê và sự kiên trì để đạt tới một mục tiêu dài hạn. Bền chí nghĩa là có sức chịu đựng tốt.
Bền chí là luôn hướng tới tương lai của bạn, ngày này qua ngày khác, không chỉ trong một tuần, không phải trong một tháng mà trong nhiều năm liền, và luôn cố gắng làm việc để biến tương lai đó thành hiện thực. Bền chí nghĩa là sống như thể cuộc đời là một cuộc chạy marathon, chứ không phải một cuộc chạy nước rút.”
Vậy làm thế nào để xây dựng đức tính đó ở một đứa trẻ?
Angela đã thẳng thắn chia sẻ rằng khi các giáo viên và phụ huynh hỏi cô điều này, cô thú thực rằng cô không biết. Tuy nhiên, có một điều cô khẳng định đó là tài năng không giúp bạn trở nên bền bỉ hơn.
Không chỉ cô, khoa học ngày nay cũng chưa đưa ra được một phương pháp cụ thể nào để rèn luyện tính bền bỉ cho trẻ mà chỉ rèn được tính chăm chỉ ở trẻ bằng tư tưởng cầu tiến được phát triển ở đại học Stanford bởi tiến sỹ Carol Dweck
“Quan điểm này nói rằng: khả năng học tập có thể thay đổi được cùng với những nỗ lực của bản thân. Bằng việc trẻ được đọc và học về não bộ và cách nó thay đổi và phát triển khi đối mặt với các thách thức có nhiều khả năng đứa trẻ sẽ trở nên kiên trì hơn mỗi khi chúng thất bại. Bởi chúng không còn tin rằng thất bại đó là vĩnh viễn. Vì vậy tư tưởng cầu tiến là một tư tưởng tuyệt vời cho việc xây dựng tính bền bỉ.”
Kết thúc bài phát biểu của mình, cô Angela đã rút ra kết luận: nếu muốn xây dựng tính bền bỉ ở trẻ, trước hết người lớn cần bền bỉ trong việc tìm tòi và dạy dỗ chúng trước đã.
Hy vọng rằng với những chia sẻ rất cụ thể của Tiến sĩ tâm lý học Angela Lee Duckworth, các bạn sẽ tìm được chìa khóa vàng thành công cho riêng mình và sử dụng nó như một công cụ đắc lực để biến ước mơ và những mục tiêu cuộc sống thành hiện thực.

Lời dạy của Đức Khổng Tử

Lời dạy của Đức Khổng Tử

Khổng Tử (chữ Hán: 孔子; còn gọi là Khổng Phu Tử 孔夫子; 27 tháng 8 âm, 551 –11 tháng 4 479 TCN) là một nhà tư tưởng, nhà triết học, nhà giáo dục, nhà chính trị nổi tiếng người Trung Hoa, các bài giảng, lời dạy và triết lý của ông có ảnh hưởng sâu rộng đối với đời sống và tư tưởng của các dân tộc Đông Á. Người Trung Hoa đời sau đã tôn xưng ông là Vạn thế Sư biểu (Bậc thầy của muôn đời).
Triết học của ông nhấn mạnh trên sự tu dưỡng đức hạnh cá nhân và cai trị bằng đạo đức: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, sự chính xác của các mối quan hệ xã hội, đạo đức và quy phạm làm người, “Đạo Trung Dung” và các đức tính “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín”. Các giá trị đó đã có được tầm ảnh hưởng lớn trên mọi học thuyết khác ở Trung Quốc như Pháp gia hay Đạo gia trong suốt triều đại nhà Hán. Các tư tưởng của Khổng Tử đã được phát triển thành một hệ thống triết học được gọi là Khổng giáo. Khổng giáo được một người Italia là Matteo Ricci đưa vào Châu Âu, ông cũng là người đầu tiên La tinh hoá tên Khổng Tử thành “Confucius”. Khổng giáo còn được xem là một tôn giáo lớn của loài người, nhất là dân tộc Trung Hoa.
Các bài giảng của Đức Khổng Tử được nghiên cứu chủ yếu qua cuốn Luận Ngữ, một tập hợp những “mẩu chuyện cách ngôn ngắn”, được biên soạn nhiều năm sau khi ông qua đời do các học trò của ông ghi chép lại. Trong gần 2.000 năm ông được cho là người biên soạn hoặc tác giả của Ngũ Kinh: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu (Kinh Nhạc đã bị Tần Thủy Hoàng đốt mất nên còn lại Ngũ Kinh).
Tìm hiểu thêm về Khổng Tử: http://vi.wikipedia.org/wiki/Khổng_Tử

Những lời dạy quý giá của Đức Khổng Tử

Đọc hết mới là kẻ trọng đạo lý, hiểu hết mới mong có nhân cách hơn người
Hình hài của mẹ của cha
Trí khôn đời dạy, đói no tự mình
Sang hèn trong kiếp nhân sinh
Buồn vui sướng khổ thường tình thế thôi
Không hơn hãy cố gắng bằng người
Cho thiên hạ khỏi ai cười ai khinh
Có chí thì ham học
Bất chí thì ham chơi
Trí khôn tạo nên người
Đức nhân tìm ra bạn
Thành đạt nhờ đức dày
Làm nên nhờ có thầy
Đủ đầy nhờ có bạn
Gái ngoan nhờ đức hạnh
Trai mạnh nhờ lực cường
Tươi đẹp lắm người thương
Lực cường nhiều kẻ mạnh
Dễ thích nghi thì sống
Biết năng động thì nên
Đủ tài trí làm nên
Đủ sức bền thì thắng
Biết mình khi hoạn nan
Hiểu bạn lúc gian nguy
Nghèo hèn bởi tự ti
Ngu si vì tự phụ
Tài đức cao hơn phú
Hạnh phúc đủ hơn giàu
Sống trung tín bền lâu
Tình nghĩa sâu hạnh phúc
Đủ tài thì đỡ cực
Đủ sức thì đỡ nghèo
Dốt nát hay làm theo
Hiểu biết nhiều thì lợi
Hỏng việc thì hấp tấp
Va vấp bởi vội vàng
Cảnh giác với lời khen
Bình tâm nghe lời trách
Quá nghiêm thì ít bạn
Dễ dãi bạn khinh nhờn
Không hứa hão là khôn
Không tin xằng ít vạ
Làm ơn đừng mong trả
Được ơn nhớ đừng quên
Nhu nhược bị ép trèn
Quá cương thì bị gãy
Cái quý thì khó thấy
Dễ lấy thường của tồi
Của rẻ là của ôi
Dùng người tội sinh vạ
Đẹp lòng hơn tốt mã
Nền nã hơn kiêu kì
Thận trọng từng bước đi
Xét suy khi hành động
Hiểu biết nhiều dễ sống
Luôn chủ động dễ thành
Thận trọng trước lợi danh
Giữ mình đừng buông thả
Tránh xa phường trí trá
Tai vạ bởi nể nang
Tài giỏi chớ khoe khoang
Giàu sang đừng kênh kiệu
Học bao nhiêu vẫn thiếu
Hiểu bao nhiêu chẳng thừa
Nhân đức chớ bán mua
Được thua không nản trí
Đủ đức tài bớt lụy
Đủ dũng khí chẳng hàng
Có vợ đảm thì sang
Có bạn vàng thì quý
Đói nghèo vì bệnh sĩ
Quẫn trí dễ làm liều
Tỉnh táo với tình yêu
Biết điều khi yếu thế
Lo việc nhà chớ kể
Ân nghĩa chớ đếm đong
Người phúc lộc nhờ nguồn
Sống bất nghĩa tai ương
Sống bất lương tù ngục
Phải cầu xin là nhục
Phải khuất phục là hèn
Hay đố kị nhỏ nhen
Hay ép trèn độc ác
Lắm gian truân càng sáng
Nhiều hoạn nạn càng tinh
Với mình phải nghiêm minh
Với chúng sinh thân ái
Đang thắng phòng khi bại
Gặt hái phòng mất mùa
Thói quen thường khó chừa
Say sưa thường khó tỉnh
Sống ỉ lại ăn sẵn
Dễ bạc phân tán mình
Sống dựa dẫm ngu đần
Sống bất cần phá sản
Hay đua đòi hoạn nạn
Quá nể bạn tai ương
Gia đình trọng yêu thương
Sống nhịn nhường hỉ hả
Thiếu tình thương man trá
Gắn vàng đá cũng tan
Biết dạy dỗ con ngoan
Chịu bảo ban con giỏi
Tinh khôn nhờ học hỏi
Cứng cỏi nhờ luyện rèn
Sống vì nhau dễ bền
Sống vì tiền đổ vỡ
Rèn con từ mới nở
Khuyên vợ lúc mới về
Muốn hiểu cần lắng nghe
Khốn nạn quên mẹ cha
Tốt đẹp hãy bày ra
Xấu xa nên đậy lại
Có ích thì tồn tại
Có hại thì diệt vong
Nhiều tham vọng long đong
Lắm ước mong lận đận
Hay vội vàng hối hận
Quá cẩn thận lỗi thời
Biết được người là sáng
Hiểu được bạn là khôn
Khiêm tốn là tự tôn
Kiêu căng là tự sát
Hứa trước thì khó đạt
Hèn nhát thì khó thành
Thù hận bởi lợi danh
Tranh giành vì chức vị
Giàu sang hay đố kị
Tài trí sinh ghét ghen
Tham giàu thì cuồng điên
Tham quyền thì độc ác
Vì tiền thì dễ bạc
Vì tình nghĩa bền lâu
Người hiểu nói trọn câu
Người dốt tâu phách lối
Có quyền thì hám lợi
Có tội thường xum xoe
Khờ dại hay bị lừa
Nó bừa hay vạ miệng
Đa ngôn thì tai tiếng
Ngậm miệng dễ được tin
Hám lợi hay cầu xin
Hám quyền hay xu nịnh
Thật thà hay oan trái
Thẳng thắn hay bị hại
Thông thái hay bị ngờ
Chiều con quá con hư
Tiền của dư con hỏng
Giàu mạnh thường thao túng
Nghèo vụng dễ theo đuôi
Người tài giỏi khó chơi
Kẻ trây lười khó bảo
Thành tâm thì đắc đạo
Mạnh bạo việc dễ thành
Quân tử thì trọng danh
Tiểu nhân thì trọng lợi
Bất tài hay đòi hỏi
Lộc lõi khó khiêm nhường
Tình nghĩa thường khó quên
Nợ nhân duyên khó trả
Khó thuần phục kẻ sĩ
Khó phòng bị tướng tài
Biết chấp nhận thảnh thơi
Hay hận đời đau khổ
Của quý thì khó giữ
Con cầu tự khó nuôi
Nhà dư của hiếm hoi
Nhà lắm người bạc cạn
Khó gần người quá sạch
Vắng khách tại quá nghèo
Dễ nổi danh kị hiền
Dễ kiếm tiền khó giữ
Kiếp người là duyên nợ
Lành vỡ lẽ thường tình
Bại thành từ lực trí
Thời gian đừng uổng phí
Biết suy nghĩ sâu xa.
Con người ta sinh ra lớn lên già cả rồi bệnh tật mất đi. Cát bụi lại trở về cát bụi. Âu cũng là quy luật thường tình của một kiếp người. Sinh, lão, bệnh, tử vốn là như vậy. Tuổi trung niên đã có những bước thăng trầm trong cuộc sống, có những thành công, có những thất bại trong cuộc sống vật chất, cuộc sống tình cảm đôi lứa. Đi qua rồi ngẫm lại mới thấy rằng kinh nghiệm cuộc sống đường đời sẽ mãi là những bài học mới cho tất cả chúng ta, dù ở địa vị nào, số phận nào đi chăng nữa. Sang hèn trong kiếp con người ta, không hơn thì cố gắng bằng người. Các bậc tiền bối dạy đời bằng một quá trình đúc kết kinh nghiệm cuộc sống chắt lọc từ thực tế mà nên triết lý sống.
Ngẫm lại thời gian trôi đi như thoi đưa, không biết bao giờ mới về với ngày xưa ơi, để rồi cùng ôn lại những kỷ niềm thời niên thiếu có buồn, vui, sướng, khổ, có điều ngây thơ, trong trắng chưa vương vấn bụi đường đời…

Không oán trời, không trách người là quân tử.

Kẻ sĩ không lo người đời chẳng biết mình mà chỉ sợ mình bất tài thôi.

Hiếu thảo là nguồn gốc của đạo đức.

Người quân tử cầu ở mình, kẻ tiểu nhân cầu ở người.

Dở nhất trong cái đạo xử thế là không thấy cái lỗi của mình.

Dụng nhân như dụng mộc.

Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đáp trả là thi ân mà có mưu tính.

Đừng lo mình không có chức vị, chỉ lo mình không đủ tài để nhận lấy chức vị.

Không oán trời, không trách đất, phàm làm người nên hiểu số mệnh.
-
Bất oán thiên, bất vưu nhân, hạ học nhi thượng đạt.


Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không tật bệnh, vì không tật bệnh thì tham dục dễ sanh.

Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.

Ở đời đừng cầu không khó khăn, vì không khó khăn thì kiêu xa nổi dậy.
Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui say mà học.
-
Tri chi giả bất như hiếu chi giả, hiếu chi giả bất như lạc chi giả.


Người có đức thì không lẻ loi, tất có bạn cũng trọng đạo đức như mình.
-
Đức bất cô, tất hữu lân.


Lời giả dối làm rồi loạn tâm thiện. Không nhịn được điều nhỏ nhặt, sẽ làm hư chuyện đại sự.
-
Xảo ngôn loạn đức. Tiểu bất nhẫn , tắc loạn đại mưu.


Biết lỗi mà không sửa, đó chính là lỗi!
-
Quá nhi bất cải, thị vị quá hĩ!


Không nghe lời tốt mà nhận định người tốt, đừng nhận định người xấu chỉ bởi lời nói.
-
Bất dĩ ngôn cử nhân; bất dĩ nhân phế ngôn.


Người nói đâu ra đó, thật thà sẽ dễ gần gũi người khác.
-
Cương, nghị, mộc nột, cận nhân.


Hãy lấy lẽ phải để đáp trả lại sự oán thù, dùng nhân đức để đáp lại người hiền.
-
Hà dĩ báo đức chính dĩ trực báo oán, dĩ đức báo đức.


Bản thân là điều phải, không ra lệnh người cũng nghe; không đúng thì có ra lệnh người cũng không nghe.
-
Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành; kỳ thân bất chính, tuy lệnh nhi bất tùng.


Không làm nhanh, không ham lợi nhỏ. Làm nhanh dễ hư chuyện; thấy lợi nhỏ mà ham thì không thể làm nên chuyện lớn.
-
Vô dục tốc; vô kiến tiểu lơi. Dục tốc tắc bất đạt; kiến tiểu lợi tắc đại sự bất thành.


Có kiến thức thì không nghi ngờ, có lòng nhân thì không ưu tư, có dũng cảm thì không sợ hãi.
-
Tri giả bất hoặc; nhân giả bất ưu; dũng giả bất cụ.


Điều mình không thích thì đừng làm cho người khác; Nơi quê hương, gia đình mình thì tránh gây thù chuốc oán.
-
Kỷ sở bất dục, vật thi vu (ư) nhân; tại bang vô oán, tại gia vô oán.


Không ở vị trí thích hợp, không nên toan tính chuyện.
-
Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính.


Người biết cảm nhận và vui với vẻ đẹp sông nước, núi non. Cảm nhận sự động, tĩnh của sự vật. Biết vui thú, sẽ sống thọ.
-
Tri giả lạc thuỷ, nhân giả lạc sơn. Tri giả động, nhân giả tĩnh. Tri giả lạc, nhân giả thọ.


Có thể ép buộc dân theo đường lối của mình, nhưng không thể cấm đoán suy nghĩ của con người.
-
Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi.


Thông minh và hiếu học thì không thẹn hỏi kẻ dưới mình, Vậy mới thật gọi là có trình độ.
-
Mẫn nhi hiếu học, bất sỉ hạ vấn, thị vị chi văn dã.


Cha Mẹ còn sống, con cái không nên đi xa, nếu đi phải cho cha mẹ biết nơi đến.
-
Phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu phương.


Người không có chữ tín, chẳng làm chi nên việc.
-
Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã.


Học mà không nghĩ thì mất hết, nghĩ mà không học thì mỏi mệt.
-
Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi.


Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, vậy mới thật là biết.
-
Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã.


Trị dân dùng pháp chế, hình phạt là chính, dân không dám làm điều phạm pháp, trị dân dùng đạo đức, dùng phép tắc, lòng tốt và nhân cách sẽ cảm hoá được dân.
-
Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ, đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách.


Trị quốc lấy đức làm trọng, mệnh lệnh như sao Bắc đẩu, duy nhất rõ ràng để mọi người tuân theo.
-
Vi chính dĩ đức, thệ như bắc thần, cư kỳ sở nhi chúng tinh cộng chi.


Trong việc trị quốc, phải thận trọng không hứa ẩu, biết đãi người hiền, phải được lòng dân.
-
Đạo thiên thừa chi quốc, kính sự nhi tín, tiết dụng nhi ái nhân, sử dân dĩ thời.


Học đi với hành, không chỉ nói cho qua chuyện!
-
Học nhi thời tập chi, bất diệc thuyết hồ!