FRÉDÉRIC CHOPIN (1810-1849)
Với người yêu nhạc cổ điển nói chung, Chopin là một trong những bậc thầy vĩ đại nhất của thời kỳ lãng mạn, được xưng tụng là “thi sĩ làm thơ bằng dương cầm” (the poet of piano). Với giới nhạc sĩ dương cầm nói riêng, Chopin là đỉnh cao để mọi người ngưỡng vọng, mà không bao giờ với tới.
Ngôn ngữ âm nhạc gọi Chopin là một “virtuoso” – tiếng Ý có nghĩa là một nhạc sĩ hay ca sĩ đã đạt tới tuyệt kỹ. Xét theo định nghĩa ấy một cách đúng đắn, tổng số “virtuoso pianist” từ trước tới nay chưa đủ để đếm trên 5 đầu ngón tay, bởi sau Chopin, chỉ có 3 người khác, là Franz Liszt, Arhur Rubinstein và Sergei Rachmaninoff.
Chopin tên họ đầy đủ là Frédéric Francois Chopin, mang hai dòng máu Pháp – Ba-lan, ra chào đời ngày 1 tháng 3 năm 1810 tại làng Zelazowa Wola, thuộc Đại công quốc Warsaw (tức thủ đô Warsaw của Ba-lan ngày nay).
Cha của Frédéric Chopin, ông Nicolas Chopin, sinh trưởng ở Lorraine, Pháp, nhưng tới năm 16 tuổi, theo một gia đình quý tộc gốc Ba-lan mà ông từng giúp việc, tới sống ở Warsaw. Tại đây, Nicolas Chopin làm nghề dạy tiếng Pháp cho giới quý tộc. Sau khi kết hôn với một cô gái Ba-lan, ông tham gia cuộc kháng chiến chống lại ách đô hộ của đế quốc Nga, với sự hậu thuẫn của người Pháp.
Khi cậu bé Frédéric Chopin bắt đầu có trí khôn thì Hoàng đế Nã-phá-luân đệ Nhất đã phải thoái vị, hòa bình trở lại trên đất nước Ba-lan, nhưng vẫn dưới ách đô hộ của đế quốc Nga.
Tuy nhiên, nếu bỏ qua yếu tố chính trị, có thể nói Frédéric Chopin đã có một tuổi niên thiếu được nhiều ưu đãi. Nhờ ông bố Nicolas làm giáo sư Pháp văn tại trường Warsaw Lyceum – trường trung học dành con trai của các danh gia vọng tộc – cả gia đình Chopin được cư ngụ trong ký túc xá của trường (ngày nay là cơ sở của Đại học Warsaw).
Bên cạnh nghề giáo, ông Nicolas Chopin còn là một nhạc sĩ thổi sáo và đàn vĩ cầm, bà vợ Justina thì chơi dương cầm và dạy đàn cho các nam sinh nội trú. Frédéric Chopin lớn lên trong bầu không khí tràn ngập tiếng nhạc ấy, đặc biệt là tiếng dương cầm của bà mẹ.
Có thể nói, Frédéric Chopin là một sự kết hợp giữa thiên tài và bản tính đa sầu đa cảm. Khi mới lên 5 tuổi, có lần nghe mẹ đàn, Frédéric Chopin đã khóc nức nở. Tuy nhiên, người đầu tiên dạy dương cầm cho Frédéric Chopin không phải là bà mẹ mà là cô chị cả Louise.
Năm lên 6 tuổi, Chopin đã có khả năng đàn lại những khúc nhạc đã nghe, và có khi còn phối hợp, biến đổi để tạo thành một nhạc khúc mới, ngay trên phím đàn chứ không cần viết thành dòng nhạc!
Tới năm 7 tuổi, Chopin trình diễn lần đầu tiên trước công chúng, và lập tức đã được giới thượng ngoạn so sánh với hai thần đồng đi trước, là Beethoven và Mozart.
Cũng vào năm 7 tuổi, Chopin sáng tác hai nhạc khúc đầu tiên, đó là 2 bản Polonaises – tức thể điệu luân vũ dân gian của Ba-lan.
* * *
Năm Chopin 11 tuổi, khi Sa hoàng Alexander đệ Nhất tới Warsaw để khai mạc quốc hội Ba-lan, cậu đã được trình diễn trước vị hoàng đế. Tới năm 15 tuổi, Chopin đã được mọi người xưng tụng là nhạc sĩ dương cầm hay nhất ở thành Warsaw.
Năm 16 tuổi, Chopin được vào Nhạc viện Warsaw, và được nhạc sư Josef Elsner nổi tiếng của Ba-lan hướng dẫn trong thời gian 3 năm về hai bộ môn nhạc lý và sáng tác.
Sau này, trong thư từ trao đổi với bạn bè, Chopin đã tiết lộ “nàng thơ” (muse) đầu tiên của ông không ai khác hơn là cô bạn học xinh đẹp Konstancja Gladkowska, về sau trở thành nữ ca sĩ của Nhà hát Opera Warsaw. Những rung động thầm kín đầu đời ấy – về tâm hồn cũng như thể xác – của chàng trai 17 tuổi đã được Chopin biến thành dòng nhạc trong hàng chục nhạc khúc soạn cho dương cầm.
Konstancja Gladkowska (1810-1889)
Tháng 8 năm 1829, ba tuần lễ sau khi tốt nghiệp Nhạc viện Warsaw, Chopin được mời sang trình diễn ở thành Vienne, kinh đô nước Áo, và cũng là thủ đô âm nhạc của cả thế giới.
Trở về Warsaw, vào cuối năm 1829 đầu năm 1830, tại Nhà hát Quốc gia, Chopin đã trình tấu hai bản Piano Concerto số 1 và số 2 nổi tiếng của ông, sáng tác vào tuổi 19 – cái tuổi mà trước kia, Beethoven và Mozart còn đang theo thầy.
Cũng vào đầu năm 1830, Chopin bắt đầu viết những bản Études để đời. Chữ “étude” nguyên là tiếng Pháp, có nghĩa là “học tập”, tức “study” trong tiếng Anh. Trong phạm vi âm nhạc, “études” là những khúc nhạc được soạn với dụng ý để các nhạc sĩ tương lai luyện tập kỹ năng. Vì thế, thể loại études thường chú trọng tới kỹ thuật nhiều hơn là nghệ thuật.
Nhưng riêng Chopin, trong số 27 bản études của ông, có khá nhiều bản đã trở thành những nhạc khúc để đời, chẳng hạn bản Étude số 3 của Opus 10 (“Opus”, viết tắt là “Op”, có nghĩa là “Tuyển tập”), mà về sau được hậu thế đặt tên là Tristesse, tiếng Pháp có nghĩa là Nỗi Sầu.
Bên cạnh đó, Chopin cũng nổi tiếng với những sáng tác ngẫu hứng, tức “impromtu”, là những sáng tác không có chủ định trước, mà dòng nhạc, nét nhạc, hồn nhạc chợt đến theo nguồn cảm hứng. Một trong những sáng tác ngẫu hứng nổi tiếng của Chopin là bản “Fantaisie Impromtu”.
(Phụ lục: Audio (1)– Fantaisie Impromtu
* * *
Đầu tháng 10 năm 1830, chàng nhạc sĩ 20 tuổi rời Warsaw để lên đường chinh phục Âu châu.
Khi ra đi Chopin đeo trên tay một cái nhẫn cho cô bạn Konstancja Gladkowska xinh đẹp ở Nhạc viện Warsaw ngày nào, nay trở thành nữ ca sĩ của Nhà hát Opera Warsaw, tặng chàng thay lời giã biệt; đồng thời Chopin còn cầm trên tay cái chén bằng bạc, đựng một nắm đất của quê hương.
Không biết đây có phải là một cái điềm hay không, chỉ biết sau đó, Chopin đã không bao giờ trở lại cố hương! Bởi vì chỉ hơn 3 tuần sau, khi Chopin đang ở thành Vienne, cuộc nổi dậy của nhân dân Ba-lan chống lại ách nô lệ của đế quốc Nga bùng nổ. Tháng 9 năm 1831, trên đường từ Vienne tới kinh thành ánh sáng Paris, được hung tin cuộc nổi dậy đã bị quân Nga dẹp tan, Chopin đã thề sẽ không bao giờ trở lại, một khi trên quê hương còn bóng quân thù!
Tại Paris, trong thời gian đầu, Chopin chỉ trình tấu dương cầm trong phòng khách của các biệt thự của giới quý tộc, hoặc các nhà tài phiệt yêu nhạc.
Tuy nhiên, kể cả sau khi đã nổi tiếng ở Paris, Chopin cũng rất ít khi trình diễn tại các hí viện, bởi ông cho rằng cách đàn của mình thích hợp với khung cảnh của nhạc thính phòng hơn. Cho nên về sau, mỗi năm Chopin chỉ trình diễn một buổi duy nhất cho công chúng ở hí viện Salle Pleytel, một rạp hát chỉ có 300 ghế ngồi.
Ngoài buổi trình diễn nói trên, Chopin chỉ đàn tại các phòng khách tư gia, các buổi họp mặt văn nghệ sĩ với số thính giả không quá 30 người. Tuy nhiên, khung cảnh mà ông ưa thích nhất vẫn là phòng khách trong căn apartment nhỏ hẹp mà ông thuê mướn.
Năm 1835, Chopin tới Carlsbad, một thị trấn cổ kính ở Đức để gặp lại cha mẹ – và cũng là lần gặp gỡ cuối cùng. Trên đường trở lại Paris, khi đi qua vùng Saxony, Chopin được tái ngộ một số đồng hương Ba-lan đang sống lưu vong tại đây, trong đó có gia đình Công tước Wodzinski với ái nữ Maria. Năm năm về trước ở Warsaw, Maria còn là một cô bé con 11 tuổi, nay cô đã dậy thì, xinh đẹp, thông minh, với một tâm hồn nghệ sĩ.
Bằng đó thứ đã khiến trái tim chàng nhạc sĩ 25 tuổi rung động, và được Maria đáp lại. Qua năm 1836, sau khi cùng gia đình Wodzinski nghỉ hè tại Dresden (Đức), Chopin ngỏ lời cầu hôn. Dĩ nhiên, Maria nhận lời, nhưng mẹ nàng chỉ chấp thuận trên nguyên tắc, nghĩa là cho hai người đình hôn rồi để đó, viện lý do Maria mới 17 tuổi, nhưng thực ra là vì tình trạng sức khỏe của Chopin.
Maria Wodzinska (1819-1896)
Cũng nên biết, trong khoảng thời gian 2 năm 1835-1936, sức khỏe của Chopin trở nên tồi tệ tới mức có tin đồn ông đã chết.
Cuộc nhân duyên bất thành giữa Frédéric Chopin và Maria Wodzinska không bao giờ được tiết lộ ra ngoài, mãi tới sau khi ông qua đời, người ra mới khám phá ra những lá thư của Maria và mẹ nàng, nữ Công tước Wodzinska, viết cho Chopin, được ông cất trong một phong bì lớn, với lời ghi chú bằng tiếng Ba-lan ở bên ngoài: “Nỗi sầu thảm của đời tôi”.
Chuyện tình buồn ấy đã để lại cho hậu thế 9 tác phẩm, gồm có: Bản luân vũ biệt ly (Farewell Waltz), viết khi Chopin giã biệt Maria, và bản Étude số 2, Opus 25, viết sau khi trở về Paris, được ông gọi là “chân dung tâm hồn của Maria”; tiếp theo là 7 ca khúc phổ từ thơ của 3 thi sĩ Ba-lan thuộc trường phái lãng mạn. Bảy ca khúc này được Chopin gửi riêng cho Matia, còn Bản luân vũ biệt ly và bản Étude số 2, Opus 25, chỉ được khám phá sau khi Chopin qua đời.
(Phụ lục: Audio ( 2) – Farewell Waltz (Chopin) – classical guitar
Delfina Potocka (1805-1877)
Sau Maria Wodzinska, đã xuất hiện một nàng thơ “ngắn hạn” trong đời Chopin, đó là nữ Bá tước Delfina Potocka, người đã được ông đề tặng bản Étude số 1, Opus 64, tức bản “Minute Waltz” nổi tiếng, còn có tựa tiếng Pháp là “Valse du petit chien” – Bản valse của con chó con.
(Phụ lục: Audio (3)– Minute Waltz (Chopin) – piano
* * *
Cũng trong năm 1836, năm chia tay Maria Wodzinska, Chopin đã gặp người tình lớn nhất của đời mình. Trong một party do nữ Bá tước Marie d’Agoult, tình nhân của nhà soạn nhạc Frank Liszt, tổ chức, Chopin được giới thiệu với người đàn bà nổi tiếng nhất, tai tiếng nhất kinh thành ánh sáng thời bấy giờ. Đó là nhà hoạt động cho nữ quyền Amantine Dupin, tức nữ Nam tước Dudevant, nhưng lại thích được mọi người gọi bằng bút hiệu của mình: nữ văn sĩ George Sand!
nữ văn sĩ George Sand
Khi ấy, Chopin mới 26 tuổi và đang thất tình Maria Wodzinska, còn Amantine Dupin 32, đã trải qua một đời chồng và hơn nửa tá mối tình lớn nhỏ với các thi, văn, nhạc sĩ nổi tiếng, như Jules Sandau, Alfred de Musset, Charle Didier, Pierre-Francois Bocage…
Amantine Dupin vốn thuộc hoàng tộc Bourbon, có họ với vua Louis 16 nhưng lại là người có đầu óc cấp tiến. Năm 19 tuổi, Amantine kết hôn với Nam tước Casimir Dudevant, được một trai một gái.
Đầu năm 1831, vào tuổi 26, Amantine bỏ chồng để bắt đầu một cuộc “nổi loạn tình cảm” kéo dài 5 năm. Đầu tiên là văn sĩ Jules Sandau, người đã hướng dẫn Amantine trong bước đầu sự nghiệp văn chương, và chọn cho nàng bút hiệu “George Sand”.
Chỉ 2 năm sau, George Sand đã tạo được tên tuổi riêng cho mình, và được nhìn nhận là nhà văn nữ có tầm vóc đầu tiên của nền văn học Pháp. Bên cạnh các tác phẩm, George Sand còn nổi tiếng với tác phong bụi đời như dân du mục Bohémien, ăn mặc như đàn ông, hút thuốc lá ở nơi công cộng, cặp kè thân mật cả với người cùng tính phái, trong đó có nữ diễn viên Marie Dorval.
Có lẽ trong số nhân tình của George Sand, thi sĩ kiêm văn sĩ Alfred de Musset là người duy nhất ca tụng nữ tính nơi con người nàng. Ông viết:
“Theo tôi, George Sand là phụ nữ có nhiều nữ tính nhất!”
Nhưng riêng Chopin thì khi gặp George Sand lần đầu đã phải sợ hãi. Ông viết cho một người bạn:
“George Sand quả là một phụ nữ đáng kinh hãi. Nhưng cô ta có phải là một người đàn bà thực sự hay không? Sao tôi nghi quá!”
Nhưng George Sand thì đã mê Chopin ngay trong lần đầu gặp gỡ ấy, và đã bỏ chàng tình nhân đang cặp kè để theo đuổi nhà nhạc sĩ. Trong lá thư dài 32 trang gửi một một người bạn thân, George Sand đã viết thẳng ra rằng mình đã lợi dụng cơ hội Chopin đang cô đơn tuyệt vọng sau khi chia tay Maria Wodzinska để chinh phục chàng nhạc sĩ trẻ.
Kết quả, tới giữa năm 1838, cả thành phố Paris đã biết chuyện Chopin và George Sand cặp kè thân mật. Bước sang năm 1839, Chopin bắt đầu chung sống với George Sand, và sống chung với hai đứa con của nàng.
Cuộc tình của hai người kéo dài được 10 năm; nhưng trong những năm cuối, George Sand được mô tả là một cô y tá nuôi bệnh hơn là một người tình, bởi vì tình trạng sức khỏe của Chopin ngày càng tồi tệ. Cuối cùng, hai người lặng lẽ chia tay vào năm 1847.
Bá tước Wojciech Grzymala, một người bạn thân đã theo dõi từ đầu tới cuối cuộc tình 10 năm giữa Chopin và George Sand, sau này kể lại:
“Nếu Chopin không bất hạnh đến nỗi gặp George Sand, người đàn bà đã đầu độc cả cuộc đời của ông, thì ông cũng sống thọ như Cherubini vậy!”
Cũng nên biết, nhà soạn nhạc lão thành Cherubini, một người bạn thân của Chopin, sống thọ 81 tuổi!
* * *
Tháng Tư năm 1849, cuộc cách mạng mà sau này người cộng sản gọi là “Công Xã Paris” nổ ra, Chopin bỏ sang Anh quốc, sống ở lâu đài của Công nương Jane Stirling, cùng với người chị góa của Công nương. Jane Stirling là một học trò cũ và cũng là một người sùng mộ Chopin, đã ngỏ ý làm mai chị mình cho ông, nhưng Chopin đã từ chối, bởi vì với bệnh tật trong người, ông cho rằng mình không có quyền đón nhận hảo ý của người học trò cũ.
Cuối tháng 11 năm 1948, khi tình hình ở Pháp đã ổn định, Chopin trở về Paris với hai bàn tay trắng. Bước sang đầu năm 1849, khi cảm thấy mình đã kiệt lực, Chopin nhắn tin về Ba-lan, mong có một người thân ruột thịt sang Paris để ở bên cạnh lúc ông trút hơi thở sau cùng, bởi ông không muốn chết cô đơn. Lúc ấy, cha ông đã qua đời được 5 năm, cô em gái Émlia thì đã chết sớm vào tuổi 14, chỉ còn lại bà mẹ Justina và cô chị Louise, người đầu tiên đã dạy Chopin đàn dương cầm.
Nhưng sau khi Louise tới Paris vào tháng 6 năm 1849, mướn một căn apartment thật đẹp, tràn ngập ánh sáng ở quảng trường Vendôme, đưa em trai tới chỗ ở mới, thì Chopin ra vẻ hồi phục. Nhưng thực ra, đó chỉ là ánh lửa bùng lên lần cuối trước khi tắt lịm.
Rạng ngày 17 tháng 9 năm 1849, khi chuông nhà thờ Thánh nữ Madeleine ở gần đó đổ 2 tiếng, Frédéric Chopin trút hơi thở cuối cùng.
Nhiều người tin rằng Chopin chết vì lao phổi, giống như cha ông và cô em gái Émilia. Tuy nhiên, cho tới nay tất cả vẫn chỉ là giả thuyết. Gần đây nhất, năm 2005, các nhà y học đã xin phép khai quật mộ phần của Chopin để tìm hiểu hư thực, nhưng trước sự phản đối của người ái mộ, đơn xin đã bị bác.
Theo di chúc của Chopin, trái tim ông được lấy ra khỏi thi thể, ướp trong rượu, bỏ vào một bình đựng cốt đưa về Warsaw, đặt trong một thân cột của Thánh đường Thập giá – tức Holy Cross Church – nơi mà ngày xưa cậu bé Frédéric Chopin cùng cha mẹ, chị em thường dự lễ mỗi sáng Chủ Nhật.
Thi hài của ông được an táng trong Nghĩa trang Père Lachaise nổi tiếng của kinh thành Paris.
Hơn 3000 người đã đi theo quan tài của ông, trong số đó có họa sĩ Eugène Delacroix, nhà soạn nhạc Frank Liszt, văn hào Victor Hugo…, nhưng nữ văn sĩ George Sand thì biệt tăm!
Mộ phần của Chopin ở Paris
Mộ phần của Chopin là một trong những tác phẩm để đời của điêu khắc gia nổi tiếng đương thời Jean-Baptiste Auguste Clésinger. Mặt tiền là chân dung nổi của Chopin, phía trên là pho tượng nữ thần Euterpe đang gục khóc trên cây đàn lia (lyre) bị gẫy. Theo huyền thoại Hy-lạp, Euterpe là một trong 9 người con gái của thần Zeus (Jupiter) với nữ thần Mnemosyne. Mỗi người con là thần của một bộ môn nghệ thuật, Euterpe là thần âm nhạc.
* * *
Frédéric Chopin qua đời khi mới 39 tuổi, nhưng sự nghiệp sáng tác trải dài suốt 32 năm, đã để lại cho đời trên 230 tác phẩm lớn nhỏ – những tác phẩm phản ánh cuộc đời buồn nhiều hơn vui của chính ông. Trong số đó, nổi tiếng nhất, phổ biến nhất cũng là một nhạc khúc buồn: bản Étude số 3 trong Opus số 10, mà về sau đã được hậu thế đặt tên là Tristesse, tiếng Pháp có nghĩa là Nỗi Sầu (Sadness).
(Phụ lục: Audio (4, 5, 6)
(4)Tristesse (Chopin) – piano;
(5)Tristesse (Chopin) – violin;
(6)Tristesse (Chopin)- José Carreras
Tristesse đã được ít nhất ba tác giả Việt Nam đặt lời hát: Anh Ngọc với tựa Nhạc buồn, Phạm Duy với tựa Sầu Chopin, và Nguyễn Lê với tựa Nỗi buồn.
(Phụ lục: Audio (7, 8)
(7) Nhạc buồn Chopin ( Lời Việt : Anh Ngọc)- Mai Hương ;
(8)Nỗi buồn Chopin (Lời Việt : Nguyễn Lê)- Quang Dũng
PHỤ LỤC:
(1) Fantaisie Impromtu (Chopin) – piano
(2) Farewell Waltz (Chopin) – classical guitar
(3) Minute Waltz (Chopin) – piano
(4) Tristesse (Chopin) – piano
(5) Tristesse (Chopin) – violin
(6) Tristesse (Chopin)- José Carreras
(7) Nhạc buồn Chopin (Anh Ngọc) – Mai Hương
(8) Nỗi buồn Chopin (Nguyễn Lê) – Quang Dũng
Hòai Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét