Tam thập như lập
Tứ thập nhi bất hoặc Ngũ thập tri thiên mệnh Lục thập như bất tùng kê Thất thập cổ la hy Bát thập đắc hi hỉ Cửu thập siêu thọ Bách thập niên giai lão Bao nhiêu tuổi là THỌ ? Ngày xưa ở Việt Nam, cha mẹ sống đến 50 tuổi được xem là THỌ. Con trai trưởng, nếu không có con trai, thì con gái trưởng, đứng ra tổ chức Lễ Thọ cho cha mẹ. Ý nghĩa của Lễ Thọ là con cái tế lễ Trời Đất, tạ ơn Trời Đất đã cho cha mẹ sống thọ, nhờ đó con cái có được điều kiện báo hiếu cha mẹ. Ngày nay, theo điều tra khoa học, tuổi thọ trung bình là 78 tuổi cho phụ nữ, và 76 tuổi cho nam giới. Như vậy, tuổi thọ có nhiều cách qui định, không đồng nhứt, nhiều địa phương khác nhau ? Để có được vài khái niệm sơ lược về tuổi thọ của người Á đông, chúng tôi tìm đến tham khảo ý kiến uyên bác của một Thầy Đồ ở Paris. Theo Cụ Đồ này, ngày nay người Việt Nam hay người Á đông, nói chung, vẫn còn giữ lễ Lục Tuần, hay Đáo Tuế, tức quay trở lại chu kỳ 60 năm, tức lễ Thọ. Hay còn được gọi đó là Hoa Giáp Chi Niên. Người được 60 tuổi gọi là “Kỳ lão”. Từ đây, chúng tôi xin được gọi quí bạn hữu trong nhóm đã lên Kỳ lão là Cụ. (Nên nhớ, trước đây, hai ông Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm lúc về nước nắm Chánh quyền, chỉ mới hơn 50 tuổi, đều để mọi người gọi mình bằng CỤ. Giờ đây, tại sao chúng tôi không gọi các bạn của chúng tôi đã trên 60 là CỤ ?) Người được 70 tuổi gọi là “Cổ Hi Thọ” bởi ngày xưa rất ít người sống đến 70 tuổi. Do đó mới có câu “ thất thập cổ lai hi ”: “Tiểu trái tầm thường hành sử hữu Nhân sinh thất thập cổ lai hi”. Đại ý muốn nói “Món nợ nhỏ người thường dễ có. Người sống đến 70 tuổi thì hiếm”. Nhưng thọ 70 hãy còn thuộc hạng thấp, TIỂU THỌ mà thôi. Người sống đến 80 tuổi hay “bát thập kế chi ”, chỉ được xếp vào hạng TRUNG THỌ. Ở Việt Nam ngày xưa, tuổi 80 gọi là Trượng Triều. Người được 80 tuổi có quyền cầm gậy (=trượng) đi vào Triều đình (=triều) để dâng kiến nghị thẳng lên Vua, hoặc phê phán, đề nghị với Triều đình về việc nước mà không bị ngăn cản. Vì vào tuổi đó mà còn sáng suốt, còn quan tâm đến việc nước, không vì tư lợi, thì nhà Vua và Triều đình phải lắng nghe. Truyền thống tốt đẹp này được tôn trọng dưới thời quân chủ cực thịnh ở Việt Nam, rất tiếc, ngày nay không còn nữa ! Từ 80 tuổi trở lên, gọi là “Tản Thọ”. Trên 90 tuổi mới được gọi THƯỢNG THỌ. 100 tuổi, gọi CAO THỌ. 108 tuổi, gọi TRÀ THỌ. Chúng tôi có hỏi Cụ Đồ ý nghĩa của hai chữ Trà Thọ, Cụ lắc đầu bảo Cụ cũng không hiểu tại sao lại gọi như thế. Theo nấc thang tuổi thọ trên đây, thì bốn Đại Huynh của nhóm bạn hữu chúng tôi chỉ mới bước qua ngạch TRUNG THỌ mà thôi. Các Cụ phải đợi mười năm nữa mới thật sự được chúc mừng là THƯỢNG THỌ. Về tuổi Thọ của các Cụ, theo kết quả điều tra chánh thức, chỉ … hơn các bà có 2 tuổi. Thôi thì … các Cụ cố nhẫn nại vậy, chờ đến Thượng Thọ. Các từ Nhật ngữ liên quan tới tuổi thọ Ðặng Lương Mô Gần đây, nhân nói chuyện với vài bạn exryu tuy nhỏ tuổi hơn tôi, nhưng cũng đã vượt qua tuổi 60 mươi, nghĩa là “sudeni kanreki wo mukaemashita (すでに還暦を迎えました),” tôi có nói rằng tiếng Nhật rất giầu từ vựng về tuổi thọ. Các bạn này đã rất ngạc nhiên khi nghe tôi kể ra một dọc những từ vựng như vậy. Xét ra đây cũng là một tri thức thuộc phạm trù zatsugaku雑学, tôi xin ghi lại đây để các bạn khác đọc mua vui trong giây lát. Nên biết rằng ngay người Nhật ở trình độ tốt nghiệp đại học cũng ít người biết hết những từ vựng này. 1. 60 tuổi: Kanreki 還暦(Hoàn Lịch). Từ này có lẽ phần đông các bạn exryu đều biết cả. Hoàn lịch là “trở lại vòng lịch.” Ðây là nói sự trở lại từ đầu của chuỗi 60 tổ hợp giữa Thập Can 十干(tức là Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý) và Thập Nhị Chi 十二支(tức là Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi). Hẳn các bạn còn nhớ cách tính bội số chung tối thiểu (saishou koubaisuu最小公倍数, Least Common Multiple = LCM): LCM{10=2x5,12=22x3} = 22x3x5 = 60. Lễ mừng thượng thọ Kanreki ở Nhật Bản làm vào ngày sinh nhật thứ 60, nghĩa là lúc được tròn 60 tuổi. Các bạn exryu sang Nhật những năm đầu của thập niên 1960 thì nay đều đã bước qua ngưỡng cửa Kanreki rồi. Omedetouおめでとう! 2. 70 tuổi: Koki 古稀(Cổ Hi). Từ này cũng khá phổ biến nên nhiều người biết và quen gọi là Cổ Lai Hi ở Việt Nam, do câu thơ Ðỗ Phủ 杜甫 “Nhân sinh thất thập cổ lai hi,人生七十古来稀” nghĩa là “đời người được bảy mươi năm xưa nay là hiếm có.” Lễ mừng thọ Koki thường được tổ chức vào ngày sinh nhật thứ 69, nghĩa là ở tuổi đếm (kazoe-doshi数え年) 70, chứ không ở tuổi chẵn 70. Tuổi đếm tiếng Việt là “tuổi ta, tuổi mụ.” Tuy nhiên, ai đã lỡ quên không ăn mừng thọ Koki ở tuổi đếm 70, thì làm lễ vào tuổi chẵn 70 cũng được. Trong đám exryu có người đã được chẵn 70 tuổi (đố biết ai?), nếu năm ngoái chưa ăn mừng Koki thì năm nay nên làm lễ đi. “Koki wo o-mukae shite, omedetou gozaimasu 古希をお迎えしておめでとうござい� �す.” 3. 77 tuổi: Kiju喜壽(Hỷ Thọ). Gọi là Hỷ Thọ, bởi vì đây là do chữ Hỷ 喜viết lược thành , và đọc chiết tự thành Thất Thập Thất, 七十七, tức là Bảy Mươi Bảy. 4. 80 tuổi: Sanju傘壽(Tản Thọ). Gọi là Tản Thọ, bởi vì chữ Tản 傘viết lược thành仐, và đọc chiết tự thành Bát Thập八十, nghĩa là 80. 5. 88 tuổi: Beiju米壽(Mễ Thọ). Gọi là Mễ Thọ, bởi vì chữ Mễ 米nếu chiết tự sẽ thành Bát Thập Bát八十八, nghĩa là 88. 6. 90 tuổi: Sotsuju卒壽(Tốt Thọ). Gọi là Tốt Thọ, bởi vì chữ Tốt 卒viết lược sẽ thành卆, và triết tự thành Cửu Thập九十, tức là 90. 7. 99 tuổi, tức tuổi đếm 100: Hakuju白壽(Bạch Thọ). Sở dĩ gọi là Bạch Thọ, bởi vì chữ Bạch白là chữ Bách百(100) bỏ chữ Nhất 一(1) đi, nên chỉ còn 99. Giống như trường hợp Koki, ở Nhật người ta ăn mừng tuổi thọ 100 tuổi theo tuổi đếm. 8. 110 tuổi: Kouju皇壽(Hoàng Thọ). Chữ Hoàng gồm chữ Bạch白(99 tuổi) cộng với chữ Vương王. Chiết tự chữ Vương王sẽ thành Nhất Thập Nhất 一十一(11). Vậy 99+11=110. |
Thứ Năm, 25 tháng 9, 2014
THẤT THẬP CỔ LAI HY
Mỗi người có nhiều loại tuổi
Người Việt rất coi trọng tuổi, vì thế trong tiếng Việt "tên" với "tuổi" thường đi liền. Có điều, loại tuổi mà chúng ta thường hỏi thăm, mừng tuổi trong dịp đầu xuân chỉ cung cấp rất ít thông tin liên quan đến sự biến đổi về tố chất của con người. Trong khoa học còn sử dụng nhiều loại tuổi khác.
Tuổi thời gian
Thứ tuổi chúng ta thường hỏi thăm nhau hằng ngày, khoa học gọi là "tuổi thời gian", ký hiệu là CA (Chronological Age), chỉ thời gian một con người đã sống, tính từ khi sinh ra trên đời. Tuổi này cũng có thể gọi là "tuổi hành chính", vì được sử dụng trong các thứ giấy tờ như giấy khai sinh, chứng minh thư, hộ khẩu... Tuy nhiên, loại tuổi này không phải lúc nào cũng tương xứng với trình độ phát triển của con người trên các phương diện, do đó trong một số lĩnh vực khoa học như sinh học, y học, tâm lý, giáo dục, xã hội học... người ta còn sử dụng những loại tuổi khác.
Tuổi sinh lý
Tuổi sinh lý phản ánh mức độ phát triển của con người về mặt sinh lý. Các kết quả quan sát và nghiên cứu cho thấy ở vùng nhiệt đới, ở những nơi có điều kiện dinh dưỡng tốt, tốc độ phát triển về sinh lý thường sớm hơn độ tuổi thời gian. Còn ở vùng hàn đới, những nơi có điều kiện dinh dưỡng kém và những người mắc một số chứng bệnh mạn tính, tốc độ phát triển về sinh lý thường tụt hậu so với thời gian. Ví dụ, trong số những bé gái 10 tuổi, một số em đã có kinh nguyệt, trong khi ở một số khác lại chưa có những đặc trưng về mặt giới tính. Tốc độ phát triển về sinh lý của con người phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện khí hậu, chế độ dinh dưỡng, các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội... Nói chung, sự phát triển của con người về mặt sinh lý thường không đồng bộ với thời gian sống. Vì vậy không thể coi "tuổi sinh lý" và "tuổi thời gian" là giống nhau.
Tuổi trí lực
Trong giáo dục, người ta sử dụng chỉ số thông minh IQ (Intelligence Quetidient). IQ thực chất là loại "tuổi trí lực" - MA (Mental Age), vì nó phản ánh trình độ phát triển về trí lực của con người.
Nói cụ thể hơn, chỉ số IQ được tính toán dựa trên "mức phát triển tiêu chuẩn", tương ứng với từng độ tuổi. Thí dụ, một em bé 10 tuổi trả lời đầy đủ các câu hỏi trắc nghiệm - được coi là chuẩn mực về phát triển trí lực của trẻ 10 tuổi - thì sẽ có IQ = 100. Nếu đó là em bé thông minh khác thường, không những trả tốt các câu hỏi dành cho 10 tuổi, mà còn trả lời đầy đủ những câu hỏi của tuổi 12, thì sẽ có chỉ số IQ = 120. Ngược lại, một em bé 10 tuổi không có khả năng trả lời đúng tất cả câu hỏi của độ tuổi mình, mà chỉ trả lời đúng những câu hỏi của trẻ 8 tuổi, thì IQ khi đó bằng 80.
Các số liệu trắc nghiệm trong nhiều năm cho thấy, đại đa số dân chúng có số trí lực trung bình, tức là IQ xấp xỉ bằng 100; khoảng 18% có IQ cao hơn trung bình (110 - 119) và 15% có IQ thấp hơn trung bình (80 - 89). Những người có IQ từ 120 trở lên được xem là thông minh đặc biệt; còn IQ thấp hơn 70 thì xếp vào loại trí lực chậm phát triển, thấp hơn nữa là các dạng khuyết tật trí lực... Tuy nhiên, tuổi trí lực hay IQ chỉ phản ánh tương đối đúng về khả năng theo học trong các trường phổ thông, mà chưa thể phản ánh đầy đủ mức độ thông minh thực sự, cũng như năng lực tiềm ẩn trong một con người.
Tuổi tâm lý
Loại thứ 2 là "tuổi tâm lý". Tuổi tâm lý bao quát cả tuổi trí lực; nó phản ánh những đặc trưng tâm lý của con người theo từng độ tuổi. Các chuyên gia tâm lý cho rằng cuộc sống tâm lý của con người có giai đoạn chính: tuổi ấu thơ, tuổi trước mẫu giáo, tuổi mẫu giáo, tuổi đi học, tuổi vị thành niên, tuổi trung niên và lão niên. Mỗi một thời kỳ đều có những đặc trưng nhất định về mặt tâm lý. Ví dụ, trong độ tuổi mẫu giáo, hoạt động tâm lý ở trẻ nhỏ thiên về trực giác, tuổi thanh xuân nhiều mơ mộng, tuổi lão niên thường hoài cổ...
Tuổi xã hội
Tuổi này phản ánh về năng lực xử sự và khả năng thích ứng với hoàn cảnh xã hội của mỗi con người; cũng có thể gọi là trình độ xã hội hóa của con người. Tuổi xã hội phụ thuộc nhiều vào trình độ văn hóa, sự từng trải, kinh nghiệm sống và mức độ thành thục về phương diện tâm lý. Trong sinh hoạt hằng ngày chúng ta thường thấy có một số em mới ít tuổi mà xử thế đã rất lão luyện, thích ứng rất nhanh với những biến động trong xã hội; trong khi đó có một số người tuổi đã lớn mà cư xử như trẻ con, đối với những sự việc diễn ra trong cuộc sống vẫn ngô nghê như "gà công nghiệp".
Tuổi tổng hợp
Từ thời xa xưa, người phương Đông thường sử dụng một loại tuổi khác, có thể gọi là "tuổi tổng hợp", vì bao gồm sự phát triển con người về trí lực - tâm lý - xã hội, đồng thời còn đề cập tới những mục tiêu cụ thể, trong từng giai đoạn.
- Giai đoạn 1: "Thập hữu ngũ nhi chí vu học" - nghĩa là 15 tuổi thì để hết tâm trí vào việc học; nói cách khác, thiếu thời cần tập trung vào việc tu dưỡng, xác định chí hướng và tích lũy kiến thức.
- Giai đoạn 2: "Tam thập nhi lập" - 30 tuổi lập thân, lập nghiệp - đã trụ vững, có nghề nghiệp, việc làm, có khả năng nuôi sống bản thân và gia đình, đã xác định vị trí của mình trong xã hội.
- Giai đoạn 3: "Tứ thập nhi bất hoặc" - 40 tuổi không còn mê hoặc, đến tuổi này thì đã chín chắn, lịch duyệt; có kiến thức và kinh nghiệm phong phú, nên đối với những việc diễn ra trong xã hội có chính kiến rõ ràng, kiên định, không còn nghi ngờ (bất hoặc).
- Giai đoạn 4: "Ngũ thập nhi tri thiên mệnh" - 50 tuổi thì biết rõ sứ mệnh của mình; đã nắm vững quy luật tự nhiên và xã hội, biết được xu thế của thời cuộc, nên công việc thường thuận lợi và dễ dàng đi đến thành công.
- Giai đoạn 5: "Lục thập nhi nhĩ thuận" - 60 tuổi thì không còn chướng tai gai mắt; do lý giải đúng căn nguyên của mọi việc diễn ra xung quanh và thấu hiểu nhân tình thế thái, nên dễ thông cảm và có thái độ khoan dung hơn - nhìn sự việc không còn thấy chướng tai gai mắt (thuận nhĩ); không như tuổi trẻ hiểu biết còn nông cạn, nên trước nhiều sự việc thường cảm thấy khó chịu, bực mình.
- Giai đoạn 6: "Thất thập nhi tòng tâm sử dục, bất du cửu" - Tới tuổi 70, cổ lai hy thì đạt đến cảnh giới đắc đạo tâm tính và đạo đã hợp nhất, mọi thứ đã thành bản năng nên nghĩ gì hay làm gì cũng đều hợp đạo, chẳng vi phạm phép tắc (bất du cửu = không vượt ra ngoài quy tắc).
Sáu giai đoạn cuộc đời do Khổng Tử đặt ra đã khái quát đầy đủ sự phát triển của con người theo thời gian - trên tất cả phương diện. Có thể nói, đó là một mô hình lý tưởng về sự phát triển đồng bộ - hài hòa - toàn diện của con người cùng với thời gian. Có lẽ chính vì vậy, cho dù hiện tại trong khoa học đã xuất hiện nhiều loại tuổi, mà chúng ta vẫn thích sử dụng đến loại tuổi này.
Khổng Tử
Khổng Tử (chữ Hán: 孔子; còn gọi là Khổng Phu Tử 孔夫子; 27 tháng 8 âm, 551 –11 tháng 4 479 TCN)[1] là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Hoa, các bài giảng và triết lý của ông có ảnh hưởng rộng lớn đối với đời sống và tư tưởng của các nền văn hóa Đông Á.[2][3][4] Người Trung Hoa đời sau đã tôn xưng ông là Vạn thế Sư biểu (Bậc thầy của muôn đời). Chính phủ Trung Quốc hiện nay, trong nỗ lực truyền bá văn hóa Trung Hoa ra thế giới, đã cho thành lập hàng trăm Học viện Khổng Tử trên khắp thế giới.
Triết học của ông nhấn mạnh trên sự tu dưỡng đức hạnh cá nhân và cai trị bằng đạo đức: "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", sự chính xác của các mối quan hệ xã hội, đạo đức và quy phạm làm người, "Đạo Trung Dung" và các đức tính "Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín". Các giá trị đó đã có được tầm ảnh hưởng lớn trên mọi học thuyết khác ở Trung Quốc như Pháp gia hay Đạo gia trong suốt triều đại nhà Hán. Các tư tưởng của Khổng Tử đã được phát triển thành một hệ thống triết học được gọi là Khổng giáo. Khổng giáo được một người Italia là Matteo Ricci đưa vào Châu Âu, ông cũng là người đầu tiên La tinh hoá tên Khổng Tử thành "Confucius". Khổng giáo còn được xem là một tôn giáo lớn của loài người, nhất là dân tộc Trung Hoa.
Các bài giảng của Khổng Tử được nghiên cứu chủ yếu qua cuốn Luận Ngữ, một tập hợp những "mẩu chuyện cách ngôn ngắn", được biên soạn nhiều năm sau khi ông qua đời do các học trò của ông ghi chép lại. Trong gần 2.000 năm ông được cho là người biên soạn hoặc tác giả của Ngũ Kinh: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu (Kinh Nhạc đã bị Tần Thủy Hoàng đốt mất nên còn lại Ngũ Kinh).
Tiểu sử
- Tam thập nhi lập; (三十而立)
- Tứ thập nhi bất hoặc; (四十而不惑)
- Ngũ thập nhi tri thiên mệnh; (五十而知天命)
- Lục thập nhi nhĩ thuận; (六十而耳順)
- Thất thập nhi tòng tâm dục bất du cự. (七十而從心欲,不踰矩)
- (Luận Ngữ)
Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni 仲尼, sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 trước Công nguyên, vào thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ[7] (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Nhiều sử sách ghi rằng ông sinh trong một gia cảnh nghèo, nhưng thực tế gia đình ông có ông tổ ba đời vốn thuộc dòng quý tộc sa sút từ nước Tống dời đến nước Lỗ. Cha của Khổng Khâu, Thúc Lương Ngột (cháu 13 đời của Vi Tử Diễn, anh của vua Trụ nhà Thương) là quan võ thuộc ấp Trâu, đến 70 tuổi mới lấy Nhan thị mà sinh ra ông. Năm lên ba, Khâu mồ côi cha, lớn lên, phải làm lụng vất vả để nuôi mẹ, nhưng rất ham học. Năm 19 tuổi, ông lấy vợ và làm một chức quan nhỏ coi kho chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác. Ông cũng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường chăn nuôi, súc vật sinh trưởng rất tốt. Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm quan Tư không, chuyên quản lý việc xây dựng công trình. Năm 22 tuổi, ông mở lớp dạy học. Học trò gọi ông là Khổng Phu Tử 孔夫子, hay gọi gọn hơn là Khổng Tử 孔子. 'Tử' ngoài ý nghĩa là 'con' ra còn có nghĩa là "Thầy". Do vậy Khổng Tử 孔子 là Thầy Khổng.
Trong suốt gần 20 năm, từ năm 34 tuổi, Khổng Tử dẫn học trò đi khắp các nước trong vùng để truyền bá các tư tưởng và tìm người dùng các tư tưởng đó. Có nơi ông được trọng dụng nhưng cũng có nơi ông bị coi thường. Năm 51 tuổi, ông quay lại nước Lỗ và được giao coi thành Trung Đô, năm sau được thăng chức Đại tư khấu (coi việc hình pháp), kiêm quyền tể tướng. Sau ba tháng, nước Lỗ trở nên thịnh trị. Nhưng rồi bị ly gián, gièm pha, ông bèn từ chức và lại ra đi một lần nữa.
Năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay vào soạn sách. Có thể nói Khổng Tử là người thầy tư nhân chuyên thu nhận học trò đầu tiên trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Trước thời ông, trường học hoàn toàn là của nhà nước. Khổng Tử sáng lập ra trường học tư, thu nhận nhiều đồ đệ, đưa giáo dục mở rộng cho bình dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian, có cống hiến thật to lớn đối với giáo dục thời cổ đại. Ông mất tháng 4 năm 479 TCN, thọ 73 tuổi.
Trong cuốn Luận Ngữ, Khổng Tử tự coi mình là một "người truyền đạt lại cái đã có mà không phát minh ra thứ gì khác". Ông rất nhấn mạnh trên tầm quan trọng của sự học, và chương mở đầu Luận Ngữ cũng đề cập tới việc học. Vì thế, ông được người Trung Quốc coi là vị Đại Sư. Thay vì tìm cách xây dựng một lý thuyết mang tính hệ thống về cuộc sốngvà xã hội, ông muốn các môn đồ của mình phải suy nghĩ sâu sắc cho chính mình và lặng lẽ nghiên cứu thế giới bên ngoài, chủ yếu thông qua các cuốn kinh cũ và qua các sự kiện quá khứ có liên quan (như Kinh Xuân Thu) hay những tình cảm của nhân dân trong quá khứ (như Kinh Thi).
Ở thời đại của sự phân chia, hỗn loạn và những cuộc chiến tranh không dứt giữa các nước chư hầu, ông muốn tái lập Thiên Mệnh để có thể thống nhất "thiên hạ" (天下, mọi thứ dưới gầm trời, ở đây nghĩa là Trung Quốc) và mang lại hòa bình, thịnh vượng cho nhân dân. Vì thế Khổng Tử thường được coi là người đã đề xướng chủ nghĩa bảo thủ, nhưng khi xem xét kỹ những đề xuất của ông ta thấy ông đã sử dụng (và có thể cố ý bóp méo) những định chế và lễ nghi trong quá khứ nhằm đặt ra một hệ thống chính trị mới của riêng mình. Ông mơ ước về sự khôi phục một vương quốc thống nhất mà những vị vua phải được lựa chọn xứng đáng theo đạo đức (như vua Nghiêu, vua Thuấn) chứ không phải theo dòng họ. Những người cai trị phải hành động vì nhân dân, và họ phải đạt tới mức hoàn thiện. Một vị vua như vậy có thể dùng đạo đức của mình giáo hóa nhân dân thay vì áp đặt mọi người bằng pháp luật và quy định. Ngược lại, một vị vua hoang dâm bạo ngược thì không còn tư cách ngồi trên ngai vàng, và người dân có quyền lật đổ vị vua đó.
Nhiều khía cạnh tư tưởng của Khổng Tử vẫn còn lưu truyền và phát huy đến tận ngày nay. Có được sự trường tồn đó, là ở tinh thần đam mê học hỏi và thái độ nghiêm túc đối với việc học của Khổng Tử. Ông nói: "Ta đi học là học cho ta, để gây cái phẩm giá của ta, chứ không phải là để khoe với người. Ta chỉ lo không làm được những việc đáng cho người ta biết, chứ không lo người ta không biết mình". Theo Ông, đã không học thì thôi chứ đã học là phải "Học cho rộng, hỏi cho kỹ; nghĩ cho cẩn thận, phân biệt cho sáng tỏ, làm cho hết sức. Có điều không học nhưng đã học điều gì thì phải học cho kỳ được. Có điều không hỏi, nhưng khi đã hỏi điều gì thì phải hỏi cho thật hiểu. Có điều không nghĩ nhưng đã nghĩ điều gì thì phải nghĩ cho ra. Có điều không phân biệt nhưng đã phân biệt điều gì thì phải phân biệt cho minh bạch. Có điều không làm nhưng đã làm điều gì thì phải cố hết sức mà làm cho bằng được… Nếu quả theo được đạo ấy thì tuy ngu mà cũng thành sáng, yếu đuối rồi cũng thành ra khoẻ mạnh".
Khổng Tử cũng nhấn mạnh trên cái mà ông gọi là "Lễ và Nhạc", coi hai thứ đó là những trụ cột của sự cân bằng cho trật tự và sự hài hoà. Lễ là các yêu cầu và quy phạm trong việc đối nhân xử thế; còn Nhạc (âm nhạc, văn nghệ) là để thống nhất mọi con tim cùng chung vui, cũng là để giữ gìn đức hạnh. Ông nói thêm rằng lễ không chỉ là cúng tế, và âm nhạc không chỉ là âm thanh của dùi đánh vào chuông. Cả hai còn là cách truyền đạt giữa lòng nhân của một người và hoàn cảnh xã hội của anh ta; cả hai yếu tố đó đều tăng cường các mối quan hệ xã hội, như Ngũ Thường (năm mối quan hệ chủ yếu): quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu thê (vợ chồng), huynh đệ (anh em) và bằng hữu (bạn bè). Các trách nhiệm luôn được cân bằng, và nếu một thần dân phải tuân lệnh vua, thì thần dân cũng phải can ngăn khi nhà vua sai lầm.
Khổng Tử chú trọng vào sự tu dưỡng đạo đức cá nhân trước tiên, sau đó nuôi dưỡng gia đình, rồi mới đến cai trị thiên hạ bằng lòng nhân từ: "Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình Thiên hạ". Ông nhấn mạnh vào Ngũ thường: "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín". Nhân là lòng từ thiện, Nghĩa là làm tròn bổn phận, Lễ là sự tôn ti trật tự hay quy tắc trong việc đối nhân xử thế với người trên kẻ dưới, Trí là trí tuệ minh mẫn làm việc gì cũng phải suy nghĩ, Tín là lòng thành thực hiện điều đã nói. Người ta phải giữ năm đạo đó làm thường, chẳng nên để rối loạn.
Những bài giảng của Khổng Tử sau này được các môn đồ của ông hệ thống thành một bộ văn bản tỉ mỉ về những quy định và cách thức thực hiện nghi lễ. Nhiều thế kỷ sau khi ông đã qua đời, cả Mạnh Tử và Tuân Tử đều viết những cuốn sách quan trọng, và lúc ấy, một triết lý đã được tạo dựng đầy đủ, gọi là Khổng giáo. Sau hơn 1.500 năm, học giả Chu Hiđã diễn giải ý tưởng Khổng giáo theo một cách hoàn toàn mới, được gọi là Tân Khổng giáo, để phân biệt với những ý tưởng trong cuốn Luận Ngữ. Tân Khổng giáo đã có ảnh hưởng sâu rộng ở Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam và nhiều nước châu Á khác cho tới tận thế kỷ 20.
Tư Mã Thiên đã có lời bình về Khổng Tử: "Trong kinh "Thi" có câu nói như thế này: "Cái giống như núi cao khiến người ta chiêm ngưỡng, cái giống như đại Đạo khiến người ta tuân theo. Từ xưa tới nay trong thiên hạ, Quân Vương và người tài đức thì có cũng nhiều. Họ khi đang còn sống đều vinh hoa quý hiển, nhưng chết đi rồi thì chẳng còn lại chút gì. Khổng Tử là một người bình dân, nhưng những người đọc sách đều tôn ông làm thầy. Từ Thiên tử, Vương Hầu đến nhân dân cả nước, những ai nói về "Lục Nghệ" thì đều xem học thuyết ấy của Khổng Tử là chuẩn tắc cao nhất. Có thể nói Khổng Tử là một Thánh nhân chí cao vô thượng".
Phương pháp giáo dục
Một trong những giáo lý sâu sắc nhất của Khổng Tử, một trong những điều khó hiểu nhất từ quan điểm phương Tây, có thể là việc ông sử dụng những câu chuyện cách ngôn chứ không giảng giải trực tiếp cách cư xử cho các môn đồ. Đạo đức của ông có thể được coi là một trong những kiểu đạo đức cao nhất. Cách dạy "gián tiếp" này được sử dụng rất nhiều trong các bài giảng của ông thông qua những lời ám chỉ, nói bóng gió, và thậm chí là sự lặp thừa. Điều này giải thích tại sao khi nghiên cứu cần đặt các bài giảng của ông vào đúng ngữ cảnh. Một ví dụ là câu chuyện sau:
-
- Từ triều về nhà, nghe tin chuồng ngựa cháy, Khổng Tử nói, "Có ai bị thương không?" Ông không hề hỏi về Ngựa.
-
-
-
-
- Luận Ngữ
-
-
-
-
- Từ triều về nhà, nghe tin chuồng ngựa cháy, Khổng Tử nói, "Có ai bị thương không?" Ông không hề hỏi về Ngựa.
Câu chuyện không dài, nhưng có tầm quan trọng rất lớn. Ở thời ông, một con ngựa có thể đắt gấp 10 lần một nô lệ. Khi không hỏi tới ngựa, Khổng Tử thể hiện sự quan tâm lớn nhất của mình: con người. Vì thế, theo nhiều nhà bình luận cả Đông và Tây, những bài giảng của Khổng Tử có thể được coi là một biến thể kiểu Trung Hoa của Chủ nghĩa nhân đạo.
Có lẽ bài giảng nổi tiếng nhất của ông là Quy tắc vàng:
-
- Tử Cống hỏi: "Có một chữ nào có thể dẫn dắt hành xử trọn đời không?"
Thầy đáp: "Có lẽ là chữ Thứ (恕)chăng? Cái gì mà mình không muốn thì đừng làm cho người khác?"
Luận Ngữ
- Tử Cống hỏi: "Có một chữ nào có thể dẫn dắt hành xử trọn đời không?"
(Điều mình không muốn đừng bắt người phải chịu thì gọi là Thứ 恕)
Để đào tạo ra những con người lý tưởng, Khổng Tử đã đề xuất một hệ thống phương pháp giáo dục khá chặt chẽ, với những kiến giải sâu sắc. Có thể nói với hệ thống phương pháp giáo dục này Khổng Tử xứng đáng là một nhà giáo dục lớn. Khổng Tử đã sử dụng nhiều phương pháp dạy học rất độc đáo, có thể khái quát lại gồm:
- Một là: Phương pháp đối thoại gợi mở, giảng dạy bằng cách trao đổi giữa thầy và trò, giữa người dạy và người học nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo và khoa học, khả năng tư duy của người học. Ông nói: "Kẻ nào chẳng phấn phát lên để hiểu thông, thì ta chẳng giúp cho hiểu thông được. Kẻ nào chẳng ráng lên để tỏ ý kiến mình, thì ta chẳng khai phát cho được. Kẻ nào đã biết rõ một góc, nhưng chẳng chịu căn cứ vào đó để biết luôn ba góc kia, thì ta chẳng dạy kẻ ấy nữa."
- Hai là: Phương pháp kết hợp học đi đôi với hành, lời nói kết hợp với việc làm, là thực hành điều đã học và đem tri thức của mình vận dụng vào trong cuộc sống. Ông nói: "Người quân tử trước học văn chương (như Kinh Thi, Kinh Thư) đặng mở rộng trí thức của mình; kế đó, người nương theo lễ giáo mà kiềm giữ lấy nết mình; nhờ vậy mà khỏi trái đạo lý. - Quân tử bác học ư văn; ước chi dĩ lễ; diệc khả dĩ phất bạn hỹ phù".
- Ba là: Phương pháp "ôn cũ biết mới", thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng và học tập. Ông thường nhắc rằng: "Người nào ôn lại những điều đã học, do nơi đó mà biết thêm những điều mới, người đó có thể làm thầy thiên hạ đó - Ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hỹ". Theo Khổng Tử, muốn tiến bộ người học phải luôn cố gắng nỗ lực, siêng năng trau dồi tri thức cho mình, phải luôn có thái độ cầu tiến, vượt lên. Người học nhất định phải có thái độ khách quan trong học tập, không được vị kỷ tư dục, võ đoán, cố chấp, tự phụ chủ quan -"vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã".
Khổng Tử đã đưa ra hệ thống các phương pháp giáo dục, phát huy tính năng động, tích cực và sáng tạo của người học. Những phương pháp đó đến nay vẫn có ý nghĩa thiết thực, đem lại hiệu quả cao trong giáo dục.
Trong quá trình giáo dục, Khổng Tử nhấn mạnh: cả thầy và trò đều phải có nghĩa vụ to lớn với nhau. Trò phải tôn kính thầy, dẫu sau này có thành đạt, quyền cao chức trọng đến đâu chăng nữa cũng không được bỏ rơi lễ nghĩa, vẫn luôn phải cung kính thầy. Ngược lại, người thầy thì phải có tư cách mẫu mực để làm gương cho trò. Người thầy có can trực, đạo đức, như thế mới có thể đào tạo nên những học trò hữu ích cho đất nước. Trong Lịch sử Việt Nam có chuyện kể rằng: Phạm Sư Mạnh sau khi đỗ đạt, làm quan to ở triều, về thăm thầy là Chu Văn An. Dọc đường qua khu chợ đang họp, ông ra uy để lính thét dân phải dẹp đường. Biết chuyện, Chu Văn An giận Phạm Sư Mạnh làm quan mà tỏ ra hách dịch với dân, làm trái lời thày dạy, nên không cho gặp mặt. Dù đã là quan lớn triều đình, Phạm Sư Mạnh vẫn phải quỳ gối cả buổi trước cửa nhà thầy để xin tha lỗi, về sau cũng hành xử khiêm nhường không dám hách dịch nữa.
Tên gọi
- Khi dịch sách Trung Quốc sang các ngôn ngữ phương Tây, các thầy tu dòng Tên đã dịch 孔夫子 thành Confucius. Cách Latinh hóa tên Khổng Tử này từ đó đã được sử dụng rộng rãi ở các nước phương Tây.
- Theo Latinh hoá:
- Kǒng Fūzǐ (hay Kǒng fū zǐ) trong bính âm.
- K'ung fu-tze trong Wade-Giles (hay, kém chính xác hơn, Kung fu-tze).
- Fūzǐ (Phu Tử) có nghĩa là nhà giáo. Bởi vì theo văn hóa Trung Quốc việc gọi thầy bằng tên là bất kính, ông chỉ được gọi là "Thày Khổng", thậm chí cho tới tận ngày nay.
- Từ 'fu' (Phu) không bắt buộc, vì thế ông cũng thường được gọi là Khổng Tử.
- Tên thật của ông là 孔丘, Khổng Khâu. Khổng là một họ phổ biến ở Trung Quốc.
- Tên hiệu của ông là 仲尼, Trọng Ni.
- Năm thứ 1 sau Công Nguyên (năm đầu thời Nguyên Thuỷ Nhà Hán), ông được trao thụy hiệu đầu tiên: 褒成宣尼公, Bao Thành Tuyên Ni Công, có nghĩa "Ngài Ni (Khổng Tử) Công Đức Đáng Ca Ngợi."
- Các thụy hiệu nổi tiếng nhất của ông là
- Tại Đài Loan, ông cũng thường được gọi là 萬世師表, Vạn Thế Sư Biểu, "Bậc Thầy Của Muôn Đời".
Triết học
Dù Khổng giáo thường được người Trung Quốc tin theo như một tôn giáo, vẫn tồn tại những cuộc tranh luận về việc liệu đó có phải là một tôn giáo không, bởi Khổng giáo ít đề cập tới các vấn đề thần học hay duy linh (quỷ thần, kiếp sau, vân vân).
Các môn đồ Khổng Tử được chấp nhận chủ yếu bởi họ dựa trên nền tảng quan điểm phổ thông Trung Quốc. Khổng Tử đề cao mối quan hệ gia đình, thờ cúng tổ tiên, trẻ kính trọng già, vợ tôn trọng chồng, và gia đình là căn bản cho một chính phủ lý tưởng. Ông đã tuyên bố rõ nguyên tắc nổi tiếng, "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân" (cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác). Ông cũng luôn mơ về thời quá khứ, và thúc giục người Trung Quốc, đặc biệt là tầng lớp chính trị, tự đổi mới mình dựa trên những hình mẫu nhữugn vị vua hiền trong quá khứ.
Nói về triết học của đức Khổng Tử, có hai chủ thuyết là nhân sinh quan và vũ trụ quan. Nhân sinh quan có hai mặt là cơ xuất thế và cơ nhập thế. Cơ nhập thế là nói về mười lăm đức, con người phải có đạo đức, nếu không có đức con người có khác gì cầm thú. Còn về cơ xuất thế là tánh mạng song. Cụ thể trong Trung Thiên dịch, là cơ năng chuyển hóa từ hậu thiên trở về với Thiên tiên. Trong quẻ Bát Thuần Càn có câu, Càn đạo biến hóa các Chánh tánh mạng, bảo hiệp Thái hòa mải lợi trinh... Con người có tánh, tức là có tâm hồn là thần trí của ta nó là thể vô hình. còn mạng ta, tức là hình thể xác thân là khí huyết. Bên Đạo Giáo gọi là Thần Khí, bên Phật giáo gọi là Tâm tức.
Về vũ trụ quan, tư tưởng của Ngài là thể hiện bằng tám quẻ: Càn là Trời, Khôn là Đất, Ly là mặt Nhật, Khảm là mặt Nguyệt... Như vậy tư tưởng triết lý của Ngài rất siêu nhiên.
Tư Mã Thiên đã đánh giá Khổng Tử như sau: "Trong thiên hạ các vua chúa và người tài giỏi rất nhiều, khi sống thì vinh hiển, nhưng lúc chết là hết. Khổng Tử là một người áo vải thế mà truyền hơn mười đời, các học giả đều tôn làm thầy, từ thiên tử tới vương hầu ở Trung Quốc hễ nói đến lục nghệ đều lấy Khổng Tử làm tiêu chuẩn. Có thể gọi là bậc Chí Thánhvậy".
Đạo đức
Lý thuyết đạo đức của Khổng tử dựa trên ba quan niệm chính:
Khi Khổng tử trưởng thành, lễ được xem là ba khía cạnh sau trong cuộc đời: hiến tế cho thần thánh, thiết chế chính trị và xã hội, và hành vi hàng ngày. Lễ được xem là quy phạm đạo đức và hành vi mà Thiên thượng (Trời) chế định cho con người, lấy đó mà biết việc nào nên làm, việc nào không nên làm.
Đối với Khổng tử, Nghĩa (義 [义]) là nguồn gốc của Lễ. Nghĩa chính là cách hành xử đúng đắn. Trong khi làm việc vì lễ, vị kỷ cá nhân chưa hẳn đã là xấu và người cư xử theo lễ một cách đúng đắn là người mà cả cuộc đời dựa trên trí. Tức là thay vì theo đuổi quyền lợi của cá nhân mình, người đó cần phải làm những gì là hợp lẽ và đạo đức. Trí là làm đúng việc vì một lý do đúng đắn. Nghĩa dựa trên quan hệ qua lại. Một ví dụ sống theo Nghĩa là tại sao phải để tang cha mẹ ba năm sau khi chết. Lý do là vì cha mẹ đã phải nuôi dưỡng chăm sóc đưa trẻ toàn bộ trong suốt ba năm đầu đời, và là người có trí phải đền đáp lại bằng cách để tang ba năm.
Cũng như Nghĩa xuất phát từ Lễ, thì Nghĩa cũng xuất phát từ Nhân (仁). Nhân là cách cư xử tốt với mọi người. Nhân là trung tâm của các đức tính: tình cảm chân thật, ngay thẳng; hết lòng vì nghĩa; nghiêm trang, tề chỉnh; rộng lượng, khoan dung và siêng năng cần mẫn. Người có đức Nhân chỉ hành động vì nhân nghĩa, đối lập với kẻ bất nhân chỉ hành động vì lợi.
Hệ thống đạo đức của Khổng Tử dựa trên lòng vị tha và hiểu những người khác thay vì là việc cai trị dựa trên luật pháp có được như một quyền lực thần thánh. Để sống mà được cai trị bằng Nhân thì thậm chí còn tốt hơn là sống trong luật pháp của Nghĩa. Để sống có nhân thì ta theo nguyên tắc vàng của Khổng tử: ông đã tranh luận rằng người ta phải luôn đối xử với người khác đúng như những gì họ muốn người khác đối xử với họ. Đức hạnh theo Khổng tử là dựa trên việc sống hài hòa với mọi người.
Khổng Tử nói: "Muốn nhân mà không muốn học thì bị cái che mờ là ngu, muốn trí mà không muốn học thì bị cái che mờ là cao kỳ, muốn tín mà không muốn học thì bị cái che mờ là hại nghĩa, muốn trực mà không muốn học thì bị cái che mờ là ngang ngạnh, muốn dũng mà không muốn học thì bị cái che mờ là loạn, muốn cương mà không muốn học thì bị cái che mờ là táo bạo khinh suất".
Ông áp dụng nguyên tắc trên như sau: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Cái gì mà ta không muốn thì đừng làm cho người khác"
Dựa theo mức độ tu dưỡng đạo đức, Khổng Tử chia loài người thành ba hạng:
- Thánh nhân: Bậc hiền giả, người thể hiện và chuyển giao chân lý minh triết.
- Quân tử: Người cao nhã, kẻ phấn đấu để làm điều chân chính.
- Tiểu nhân: Kẻ "hèn mọn", hành động không màng tới đạo đức.
Khổng Tử nói: "Người quân tử sợ ba điều: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời nói của thánh nhân. Kẻ tiểu nhân không biết mệnh trời, nên không sợ, mà còn khinh nhờn bậc đại nhân, giễu cợt lời nói của thánh nhân. Người quân tử ung dung mà không kiêu căng, kẻ tiểu nhân kiêu căng mà không ung dung".
Chính trị
Tư tưởng chính trị Khổng Tử dựa trên tư tưởng đạo đức của ông. Ông cho rằng chính phủ tốt nhất là chính phủ cai trị bằng "Lễ nghĩa" và đạo đức tự nhiên của con người, chứ không phải bằng vũ lực và mua chuộc. Ông đã giải thích điều đó tại một trong những đoạn quan trọng nhất ở cuốn Luận Ngữ: "Dùng mệnh lệnh, pháp luật để dẫn dắt chỉ đạo dân, dùng hình phạt để quản lý dân, làm như vây tuy có giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục. Dùng đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, làm như vậy chẳng những dân hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, mà còn cam tâm tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ mặt tư tưởng." (Tứ Thư - Luận Ngữ, NXB Quân đội Nhân dân 2003) Sự "biết sỉ nhục" là sự mở rộng của trách nhiệm, nơi mà hành động trừng phạt đi trước hành động xấu xa, chứ không phải đi sau nó như trong hình thức luật pháp của Pháp gia.
Trong khi ủng hộ ý tưởng về một vị Hoàng đế đầy quyền lực, nguyên nhân là vì tình trạng hỗn loạn ở Trung Quốc thời Xuân Thu, các triết lý của Khổng Tử chứa đựng một số yếu tố hạn chế sự lạm quyền của những nhà cai trị. Ông cho rằng lời lẽ phải luôn ngay thật; vì thế tính trung thực có tầm quan trọng hàng đầu. Thậm chí trên nét mặt, phải luôn thể hiện sự trung thực.
Khi bàn luận về mối quan hệ giữa thần dân và nhà vua (hay giữa con và cha), ông nhấn mạnh sự cần thiết phải có sự tôn trọng của người dưới với người trên. Điều này không có nghĩa là người dưới phải răm rắp tuân theo mọi mệnh lệnh từ người trên như nhiều người hiện nay suy diễn sai. Mà ngược lại, người dưới phài đưa ra lời khuyên cho người trên nếu người trên có hành động sai lầm. Tư tưởng này được học trò của ông là Mạnh Tử phát triển thêm khi nói rằng nếu vua không ra vua, ông ta sẽ mất Thiên mệnh và sẽ phải bị lật đổ. Vì thế hành động giết bạo chúa là đúng đắn bởi vì kẻ bạo chúa giống một tên trộm hơn là một vị vua.
Môn đồ
Môn đồ và là người cháu duy nhất của ông, Tử Tư, tiếp tục duy trì trường phái triết học Khổng Tử sau khi ông qua đời. Trong khi vẫn dựa chủ yếu vào hệ thống đức trị của Khổng Tử, hai trong số những môn đồ nổi tiếng nhất của ông nhấn mạnh trên những khía cạnh khác biệt trong giáo lý của ông.. Mạnh Tử tin vào tính thiện vốn có của con người, trong khiTuân Tử đề cao sự thực tế và những khía cạnh vật chất trong tư tưởng Khổng Tử.
Ở thời Nhà Tống, học giả Chu Hi đã thêm các ý tưởng từ Đạo giáo và Phật giáo vào Khổng giáo. Trong suốt cuộc đời mình, Chu Hi không được mọi người biết tới, nhưng không lâu sau khi ông mất, những ý tưởng đó trở thành một quan điểm chính thống mới về những ý nghĩa thực sự của tư tưởng Khổng Tử. Các nhà sử học hiện đại coi Chu Hi là người đã tạo ra một thứ gì đó khác biệt và gọi tư tưởng của ông là Tân Khổng giáo. Ở thời hiện đại, vẫn có một số học giả nho giáo (xem Tân Khổng giáo) nhưng trong thời Cách mạng Văn hoá, Khổng giáo thường bị những nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc lên án.
Quê hương
Ngay sau khi Khổng Tử mất, Khúc Phụ (曲阜) quê hương ông đã trở thành nơi hành hương bày tỏ lòng thành kính và tưởng nhớ ông. Hiện đây vẫn là một địa điểm du lịch văn hóa nổi tiếng, nhiều người Trung Quốc thường xuyên viếng thăm mộ và những ngôi đền xung quanh. Tại Trung Quốc, có nhiều ngôi đền nơi Phật giáo, Lão giáo và Khổng giáo cùng hiện diện. Cũng có nhiều ngôi đền thờ riêng Khổng Tử, chúng thường là nơi tổ chức những buổi lễ tưởng nhớ ông.
Hậu duệ
Con cháu Khổng Tử luôn được các vị vua chúa các triều đại phong kiến sau này kính trọng và được phong tước quý tộc cũng như giữ một số chức vụ quan lại triều đình. Đầu tiên, hoàng đế Hán Cao tổ đã phong cho cháu đời thứ 9 của Khổng Tử là Khổng Đằng chức "Phụng Tự quân", trông coi việc tế giỗ Khổng Tử. Đến đời Hán Nguyên đế đã phong cho Khổng Bá, cháu đời thứ 13 tước "Bao Thành hầu". Họ Khổng được phong tước Hầu cả thảy 35 lần kể từ thời nhà Hán. Đến đời Đường, hoàng đế Đường Huyền Tông đã phong tước "Văn Tuyên công" cho Khổng Chi, cháu đời thứ 35. Đến năm 1055, hoàng đế Tống Chân Tông cải phong thành tước "Diễn Thánh công" (衍聖公 - Yǎnshèng gōng) cho Khổng Thánh Hữu, cháu đời thứ 46. Tính tổng cộng, họ Khổng tiếp tục được gia phong tước Công 42 lần từ đời Nhà Đường tới thời Nhà Thanh. Dù trong lịch sử Trung Quốc luôn xảy ra những cuộc thay đổi triều đại, danh hiệu Diễn Thánh công luôn được trao cho các thế hệ con cháu của Khổng Tử. Người cuối cùng được phong tước hiệu này là Khổng Đức Thành (1919-2008), cháu đời thứ 77 của Khổng Tử. Mãi cho đến năm 1935, chính phủ Trung Hoa Dân quốc bãi bỏ tước vị này, nhưng vẫn chỉ định ông Khổng Đức Thành làm người trông coi việc cúng giỗ Khổng Tử.
Trải qua nhiều thời đại, các thành viên họ Khổng thường có quan hệ hôn nhân với một số gia đình Nho giáo có ảnh hưởng ở Trung Quốc. Một vị anh hùng dân tộc thời Nhà Tống làVăn Thiên Tường cũng có mối quan hệ thông gia với gia tộc họ Khổng. Hoàng đế Càn Long đã cưới một người cháu gái của Khổng Hiến Bồi, cháu đời thứ 72 của Khổng Tử, khiến họ Ái Tân Giác La và họ Khổng có quan hệ với nhau. Một người cháu khác là Khổng Tường Hy, cháu đời thứ 75, từng giữ chức Viện trưởng Hành chính, kiêm Bộ trưởng Tài chính trong chính phủ Tưởng Giới Thạch, lập gia đình với Tống Ái Linh, trở thành anh em cột chèo với cả 2 vị tổng thống của Trung Hoa Dân quốc là Tôn Trung Sơn vàTưởng Giới Thạch.
Ngày nay có hơn năm mươi vạn người họ Khổng sinh sống ở Khúc Phụ đều nhận là con cháu của Khổng Tử. Như nghìn năm trước, hậu duệ của Khổng Tử vẫn tiếp tục gìn giữ việc tế tự tại Khổng Phủ
Dòng dõi chính của ông đã chạy từ quê hương Khúc Phụ tới Đài Loan trong thời Nội chiến Trung Quốc. Người trưởng tộc là Khổng Đức Thành, một giáo sư tại Đại học Quốc lập Đài Loan. Ông từng phục vụ cho chính phủ Trung Hoa Dân quốc với tư cách Chủ tịch Khảo thí viện. Ông cưới Tôn Kỳ Phương, chắt của một vị học giả, quan chức nhà Thanh và cũng là chủ tịch đầu tiên của Đại học Bắc Kinh Tôn Gia Nại, gia đình ông này đã lập ra tổ hợp kinh doanh đầu tiên ở Trung Quốc hiện đại ngày nay, gồm nhà máy bột mì lớn nhấtChâu Á, Công ty Bột mì Fou Foong. Con trai trưởng của ông là Khổng Duy Ích, cháu đời thứ 78 của Khổng Tử đã qua đời vào năm 1989. Cháu nội của ông, Khổng Thụy Trường, sinh năm 1975, là cháu đời thứ 79. Năm 2008, Khổng Đức Thành qua đời ở tuổi 90, nhưng cũng đã kịp chứng kiến sự ra đời của người cháu đời thứ 80 của Khổng Tử, Khổng Hựu Nhân, được sinh hạ vào ngày 1 tháng 1 năm 2006 tại Đài Bắc. Hiện tại, ông Khổng Thụy Trường giữ chức vụ danh dự "Đại thành chí thánh tiên sư phụng tự quan" (大成至圣先师奉祀官) của chính phủ Đài Loan, chịu trách nhiệm tế tự cho Khổng Tử.
Trước sự quan tâm lớn về dòng dõi của Khổng Tử, một dự án được tiến hành ở Trung Quốc để kiểm tra ADN của các thành viên gia đình đã được biết.[9] Theo đó, cho phép các nhà khoa học xác định nhiễm sắc thể Y chung của các thế hệ con cháu theo dòng nam của Khổng Tử. Nếu thế hệ con cháu được tiếp nối liên tục, cha truyền cho con, những thành viên nam của gia đình sẽ có các nhiễm sắc thể Y giống nhau với đột biến nhỏ xảy ra theo thời gian.[10] Tuy nhiên, năm 2009, những thành viên gia đình đã quyết định không tiến hành kiểm tra ADN.[11] Bryan Sykes, giáo sư di truyền học của Đại học Oxford, giải thích quyết định này: "Dòng dõi gia đình Khổng Tử có một dấu ấn văn hóa quan trọng... Đây không chỉ là vấn đề về mặt khoa học."[11] Cuộc kiểm tra ADN dự định bổ sung những thành viên mới vào dòng dõi gia đình Khổng Tử, mà những bản gia phả đã thiếu sót vì những biến động trong thế kỷ 20.[12]
Cũng cần lưu ý rằng những nhánh con cháu được biết hiện nay nhờ sử liệu được ghi chép. Sử dụng những mô hình toán học, khá dễ dàng để nhận ra rằng những người sống hiện tại có nhiều tổ tiên hơn là theo quan điểm thông thường, do đó có thể còn có nhiều người hơn nữa là con cháu của Khổng Tử.[13]
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)