Thứ Bảy, 13 tháng 9, 2014

Những câu đối khắc ở một số đình chùa đền miếu ...


Câu đối ở Quốc Tử Giám:
Đông Tây Nam Bc do t đo
Công, Khanh, Phu, Sĩ xut th đ
Câu đối khắc ở chùa Bối Khê huyện Thanh Oai:
Bc quc chí kim kinh n vũ (Nước phương Bắc (Trung Quốc) cho đến nay còn sợ cơn mưa (bão) giận)
Nam bang t c vng tường vân (Nước Nam nhỏ (Việt Nam) tự xưa vẫn trông ngóng mây lành)
Vế đu câu đi nhc đến lch s bo v ch quyn đt nước khi b xâm lược, nhân dân ta đã quyết tâm làm nên nhng chiến thng Bch Đng, Chương Dương, Hàm T, Chi Lăng, Đng Đa mà cho nay h vn còn thy kinh s. Vế th hai nêu lên tinh thn ca nhân dân nước Nam ta vn t xưa vn có, ch mong ngóng mây lành cho cuc sng hòa bình, hu ngh).
Câu đối ở Miếu Trung Liệt - gò Đống Đa:
Câu đối này tưởng nhớ Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương và các anh hùng nghĩa liệt:
Th thành quách, th giang san, bách chiến phong trn dư xích đa (Đó thành quách, đó giang sơn, trăm trận phong trần còn thước đất)
Vi nht tinh, vi hà nhc, thp niên tâm s cng thanh thiên (Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh)
Câu đối khắc ở chùa Lạc Lâm - Quốc Oai - Hà Tây cũ:
Danh li th trường thanh tnh tn tâm siêu xut tc
Chiến tranh thi đi t bi bt sát đ qun sinh
Câu đối Đức Ông tại chùa Thiên Phức (Còn gọi là chùa Bộc) ở Khương Thượng Đống Đa:
Đng lý vô trn đi đa sơn hà lưu đng vũ (Bụi trần trong động không còn, non sông đất nước lưu rường cột)
Quang trung hóa pht tiu thiên thế gii chuyn phong vân (Ánh sáng hóa thành phật cõi tiểu thiên thế giới chuyển gió mây)
Có tài liu nói vua Quang Trung được th  chùa Bc, tượng Đc Ông chính là tượng Quang Trung, nhưng đ tránh tr thù ca nhà Nguyn nên tượng và câu đi không dám đ rõ
Câu đi kh chùa C - Nam Đnh.
Vân ti sơn đu, b đáo sơn đu, vân hu vin (Mây phủ đầu non, bước tới đầu non, mây chẳng có)
Nguyt trm thy đ, lao cùng thy đ, nguyt hoàn không (Trăng chìm đáy nước, mò sâu đáy nước, trăng là không)
Câu đi này văn cnh đã hay, ni hàm li rt rng. Câu đi phá chp trit đ, li mun lý gii “Tánh Không”, cũng li phng pht Kinh Lăng Già. Thy mây trùm đnh núi quá đp, tưởng đâu cnh đy có tht, quyết hăm h đi cho đến đnh núi đ xem mây. Nhưng đến đnh núi ri, mây  đây không có mà l xa hơn. Nhìn trăng chiếu mt nước, tưởng trăng nm dưới đáy nước, nhy xung mò ln hòng ly được trăng, nhưng làm gì có trăng tht mà hòng ly? Ch thy vn hu sum la như vy mà chp lm vn hu “có tht như nó đang là”. Ch có người mê vng mi chp lm như vy, ch người trí, người đã hiu Đo thì tránh được chp lm mê này.
Nhng câu đi trong các chùa chi thành ph Huế và tnh Tha Thiên.
Câu đối khắc ở chùa Diệu Đức - Huế:
Đăng minh phm vũ hi tam gii
Nguyt lãng thin quan ph thp phương
Câu đối khắc ở chùa Thiên Tôn - Huế:
Bo đc trường minh, bt đon môn tin lưu lc thy (Tiếng mõ vang dài, trước cửa không ngừng dòng suối biếc)
Pháp thân đc l, y nhiên ta lý khán thanh sơn (Pháp thân một lối, trong phòng cứ vậy ngắm non xanh)
Câu đối khắc ở tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ:
Hng hà sa gii Nam vô Pht
Bác nhã kinh văn Cc lc Thiên
Câu đối ở chùa Trường Xuân - Thuận Hóa:
Ngc cht giáng Hoàng cung, th thy cu long t mc dc
Kim thân tu Tuyết lĩnh, hàm hoa bách điu cnh triu tham
T câu đi này ta có th ging li toàn th lch s Đc Pht t khi đn sinh đến khi thành đo
Câu đối khắc ở chùa làng La Chử:
Vin quan sơn hu sc
Cn thính thy vô thanh
Câu đi din t cnh thc: xa xa v phía tây và phía nam là hình thế núi non hin ra rt nhiu màu sc, màu đt ca đi núi th gn; màu xanh đm cây lá ca núi  xa, màu xanh dương đm ca nhng chm núí  xa hơn và cao hơn. Li thêm màu xanh da tri, màu trng ca tng đám mây xa, cao lơ lng… Cnh đp thc khó t. Bên sau vườn chùa rng ri, dưới chân vùng đt cao có ngôi chùa ta ly, li có dòng nước chy. Dòng nước nh ôm bc ly cuc đt, nước chy thường xuyên nhưng li không nghe tiếng róc rách. Câu đi vn dng cnh thc tế, và qua cnh thc tế ca mt ngôi chùa mà nói lên bao nhiêu là giáo pháp ca Đo Pht. Các khái nim “hu, vô, thanh, sc”  đây không bao hàm ni dung có thiên hướng đòi lý gii; mà chúng ch cùng ng vi toàn b mười ch ca hai vế đi đ nói lên cái sau văn t, tc là li din t “ý ti ngôn ngoi”.  đây là mun din t Thin đo, thy được cái không thy.  xa thì núi có sc tướng như vy; nhiu màu khác nhau, hình thù cao thp un lượn khác nhau; tròn, nhn, lài lài khác nhau; nhưng núi đâu có phi thế! Cho nên người tu đo Thin, thy được cái mà thiên h không thy, tc là cái thc cht ca núi; cao hơn là cái Thc ca Đo, ca Gii thoát… Nghe được cái không nghe. Nghe tiếng nước róc rách là cái nghe vng đng. Nghe cái không nghe được mi tht là biết nghe.
Nhng câu đi kh chùa Phước Hu tnh Vĩnh Long.
Phước t trước như b c sông sâu, th li ngp đu, voi đi ướt đít
Hu v sau t đường dài đt rng, cò bay thng cánh, chó chy ngay đuôi
Hai ch đu hai vế là Phước - Hu. Đây là câu đi làm riêng cho chùa này, trong đó có th, voi, cò ri chó, li còn ướt đít, ngay đuôi. Tht là thoi mái, vô chp. Ý tác gi mun ly nhng ngôn ng thường nht ca Pht t, là nhng người dân chân đt đ thêm gn gũi, hòa quang đng trn...
Câu đi kh chùa Giác Lâm thành ph H Chí Minh.
Hoà thượng Trần Bửu Hương có tặng chùa Giác Lâm đôi câu đối như sau:
朝朝朝朝朝拜朝朝朝拜 Triêu triêu triu, triêu triêu bái, triêu triêu triu bái (Nhộn nhàng chầu, nhộn nhàng bái, nhộn nhàng chầu bái)
齊齊齋齊齊戒齊齊齋戒 T t trai, t t gii, t t trai gii (Lặng lẽ trai, lặng lẽ giới, lặng lẽ trai giới)
Đôi câu đi này cũng có th dch là: "Sáng sáng chu, sáng sáng ly, sáng sáng chu ly" và "Đu đu chay, đu đu tnh, đu đu chay tnh". Theo các nhà nghiên cu thì đôi câu đi này có xut x t chùa Thanh Vân (nay đã hoang tàn)  th trn Xuân Loan, min thượng du sông Mc Dương bên Trung Quc, nguyên bn như sau:
朝朝朝朝拜朝朝朝拜酬帝泽 Triêu triêu triu, triêu triêu bái, triêu triêu triu bái thù đếtrch (Sáng sáng chầu, sáng sáng lạy, sáng sáng chầu lạy trả ơn vua)
齊齊齊齊齊戒齊齊齊戒答神恩 T t trai, t t gii, t t trai gii đáp thn ân (Đều đều chay, đều đều tịnh, đều đều chay tịnh đáp X thần)
Ngoài ra ti đn Thiên Hu Thánh M Mi Châu, tình Phúc Kiến, cũng có hai câu gn tương t:
朝潮朝潮朝朝潮朝朝潮音 Triêu triu, triêu triu, triêu triêu triu, triêu triêu triu âm
齊齊齊齊齊齊齊齊齊齊戒 T trai, t trai, t t trai, t t trai gii
 đây, ch tri thay cho tri là thy triu (ch không phi chu ly) và nghĩa ca hai câu là: Thy triu bui sáng, thy triu bui sáng, thy triu các bui sáng, tiếng thy triu các bui sáng; Đu chay, đu chay, đu đu chay, đu đu chay tnh. Ý là: “Triu khi gii âm” 潮起戒音, tc h tiếng sóng triu đánh vào b thì mi người đu im lng. Tương truyn hai câu này là ca Thám hoa Đái Đi Tân đi Minh.
Có mt d bn khác ca đôi câu đi trên nhưng vế trên li đo xung vế dưới, xin đưa c vào đ đc gi nghiên cu:
齊齊齋齊齊戒齊齋齊戒佛恩廣大 T t trai, t t gii, t trai t gii, Pht ân qung đi (Đều đều chay, đều đều tịnh, đều chay đều tịnh, ơn Phật rộng lớn)
朝朝朝朝朝拜朝朝朝拜功德無量 Triêu triêu triu, triêu triêu bái, triêu triu triêu bái, công đc vô lượng (Sáng sáng chầu, sáng sáng lạy, sáng chầu sáng lạy, công đức không lường)
Đây là hai câu đi ca chùa Phong Ninh  th trn Thch Loan, tnh Qung Đông và cp đi này cũng có hai ch cui câu (đi, lượng) thuc vn trc.
Câu đi kh chùa Nhn Sơn - Bình Đnh.
Ngoan thch đim đu, thch kh vi nhân, nhân tác Pht (Đá rắn gật đầu, đá hẳn là người, người làm Phật)
Nhn sơn hi th, sơn khai chánh pháp, pháp truyn nhân (Non nhạn hướng lễ, non mở chánh pháp, pháp truyền người)
Câu đi kh chùa Hi Khánh - Sông Bé.
Nhược thc nhược hư, trúc nh to giai trn bt đng (Như thực như hư, bóng trúc quét thềm, bụi trần vẫn tạnh)
Th không th sc, nguyt xuyên hi đ thy vô ngn (Là không là sắc, ánh trăng xoáy biển, sóng biển không nhồi)

Nguyễn Tiến Phụng -     (    )
Nguyễn Tiến Tuấn -      (     )  
Nguyễn Tiến Vinh   -    (      )
Nguyễn Tiến Quảng -     (   )
Nguyễn Tiến Hùng(Dũng)  -    ( )
Nguyễn Tiến Việt   -    .
Nguyễn Tiến Thắng -     (  )
Nguyễn Hà Bắc       -   
Nguyễn Tiến Khánh -     (  ,  )
Nguyễn Tộc -  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét