Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2014

Một số mẫu chữ Hán HOÀNH PHI, CÂU ĐỐI...

Hoành phi, Câu đối là một trong những loại hình văn hóa rất phổ biến ở nước ta khi được in, khắc trên giấy hay các vật liệu khác nó trở thành một sản phẩm văn hóa thú vị và khi đặt trong đình, đền, nhà thờ họ, nhà ở...lại có ý nghĩa tâm linh lớn.

Hoành phi (H:橫扉, A: The horizontal lacquered board, P: Le panneau laqué horizontal) nguyên nghĩa là bảng nằm ngang vốn là bức thư họa 書畫. Còn Câu đối còn gọi là Doanh thiếp 楹帖, Doanh liên 楹聯 (một cặp câu dán cột nhà), Đối liên 對聯 (một cặp câu đối xứng) nó là một cặp đối xứng khi in, khắc ra được treo đối xứng nhau.

Xưa kia được viết bởi chữ Hán hay chữ Nôm. Nay vẫn thông dụng thế nhưng có nơi dùng chữ quốc ngữ (chữ Latin ghi âm Việt) hoặc có chú thích thêm bằng chữ Việt. Sau đây chép lại một số mẫu để nhớ, tham khảo khi cần.

1. Một số mẫu Hoành phi (sưu tầm)

CHỮ HÁN = Âm Hán = Dịch nghĩa
万古英灵 = Vạn cổ anh linh = Muôn thủa linh thiêng
追念前恩 = Truy niệm tiền ân = Tưởng nhớ ơn xưa
留福留摁 = Lưu phúc lưu ân = Giữ mãi ơn phúc
海德山功 = Hải Đức Sơn Công = Công Đức như biển như núi
德旒光
= Đức Lưu quang = Đức độ toả sáng
福来成 = Phúc lai thành = Phúc sẽ tạo nên
福满堂 = Phúc mãn đường = Phúc đầy nhà
饮河思源 = Ẩm hà tư nguyên = Uống nước nhớ nguồn
克昌厥後 = Khắc xương quyết hậu = May mắn cho đời sau
百忍泰和 = Bách nhẫn thái hoà = Trăm điều nhịn, giữ hoà khí
五福临门 = Ngũ Phúc lâm môn = Năm Phúc vào cửa
忠厚家声 = Trung hậu gia thanh = Nếp nhà trung hậu
永绵世择 = Vĩnh miên thế trạch = Ân trạch kéo dài
元遠長留 = Nguyên viễn trường lưu = Nguồn xa dòng dài
萬古長春 = Vạn cổ trường xuân = Muôn thủa còn tươi
福禄寿成 = Phúc Lộc Thọ thành
兰桂腾芳 = Lan quế đằng phương = Cháu con đông đúc
後後無終 = Hậu hậu vô chung = Nối dài không dứt
家门康泰 = Gia môn khang thái = Cửa nhà yên vui
僧财进禄 = Tăng tài tiến lộc = Hưởng nhiều tài lộc
有開必先 = Hữu khai tất tiên = Hiển danh nhờ tổ
光前裕後 = Quang tiền dụ hậu = Rạng đời trước, sáng cho sau
好光明 = Hảo quang minh = Tốt đẹp sáng tươi
百世不偏 = Bách thế bất thiên = Không bao giờ thiên lệch
孝德忠仁 = Hiếu Đức Trung Nhân
高密肇基 = Cao Mật triệu cơ = Nơi phát tích là Cao Mật
家和萬事興 = Gia hòa vạn sự hưng
蛟龍得水 = Giao long đắc Thủy = Như Rồng gặp nước



2. Một số mẫu Câu đối (sưu tầm và biên soạn)
Chữ và âm Hán
德大教傢祖宗盛
功膏開地後世長
Đức đại giáo gia tổ tiên thịnh,
Công cao khai địa hậu thế trường.
Dịch Nghĩa
Công cao mở đất lưu hậu thế
Đức cả rèn con rạng tổ tông.

Chữ và âm Hán
本根色彩於花叶
祖考蜻神在子孙
Bản căn sắc thái ư hoa diệp
Tổ khảo tinh thần tại tử tôn
Dịch Nghĩa
Sắc thái cội cành thể hiện ở hoa lá
Tinh thần tổ tiên trường tồn trong cháu con

Chữ và âm Hán
有開必先明德者遠矣
克昌厥後继嗣其煌之
Hữu khai tất tiên, minh đức giả viễn hỹ
Khắc xương quyết hậu, kế tự kỳ hoàng chi
Dịch Nghĩa
Lớp trước mở mang, đức sáng lưu truyền vĩnh viễn,
Đời sau tiếp nối, phúc cao thừa kế huy hoàng.

Chữ và âm Hán
木出千枝由有本
水流萬派溯從源
Mộc xuất thiên chi do hữu bản,
Thuỷ lưu vạn phái tố tòng nguyên
Dịch Nghĩa
Cây chung nghìn nhánh sinh từ gốc
Nước chẩy muôn dòng phát tại nguồn

Chữ và âm Hán
梓里份鄉偯旧而江山僧媚
松窗菊徑归来之景色添春
Tử lý phần hương y cựu nhi giang sơn tăng mỵ
Tùng song cúc kính quy lai chi cảnh sắc thiêm xuân
Dịch Nghĩa
Sông núi quê xưa thêm vẻ đẹp,
Cúc tùng cành mới đượm mầu Xuân

Chữ và âm Hán
欲求保安于後裔
須凭感格於先灵
Dục cầu bảo an vu hậu duệ
Tu bằng cảm cách ư tiên linh
Dịch Nghĩa
Nhờ Tiên tổ anh linh phù hộ
Dìu cháu con tiến bộ trưởng thành

Chữ và âm Hán
百世本枝承旧荫
千秋香火壮新基
Bách thế bản chi thừa cựu ấm
Thiên thu hương hoả tráng tân cơ
Dịch Nghĩa
Phúc xưa dày, lưu gốc cành muôn thủa
Nền nay vững, để hương khói nghìn thu

Chữ và âm Hán
德承先祖千年盛
愊荫兒孙百世荣
Đức thừa tiên tổ thiên niên thịnh
Phúc ấm nhi tôn bách thế gia
Dịch Nghĩa
Tổ tiên tích Đức ngàn năm thịnh
Con cháu nhờ ơn vạn đại vinh.

Chữ và âm Hán
族姓贵尊萬代長存名继盛
祖堂灵拜千年恒在德流光
Tộc tính quý tôn, vạn đại trường tồn danh kế thịnh
Tổ đường linh bái, thiên niên hắng tại đức lưu quang.
Dịch Nghĩa
Họ hàng tôn quý, công danh muôn thủa chẳng phai mờ
Tổ miếu linh thiêng, phúc đức ngàn thu còn toả sáng

Chữ và âm Hán
祖德永垂千载盛
家风咸乐四时春
Tổ đức vĩnh thuỳ thiên tải thịnh
Gia phong hàm lạc tứ thời xuân
Dịch Nghĩa
Đức Tổ dài lâu muôn đời thịnh
Nếp nhà đầm ấm bốn mùa Xuân.

Chữ và âm Hán
木本水源千古念
天经地义百年心
Mộc bản thuỷ nguyên thiên cổ niệm
Thiên kinh địa nghĩa bách niên tâm

Chữ và âm Hán
萬古功成名顯达
千秋德盛姓繁荣
Vạn cổ công thành danh hiển đạt
Thiên thu đức thịnh tính phồn vinh

Chữ và âm Hán
山高莫狀生成德
海闊難酬鞠育恩
Sơn cao mạc trạng sinh thành đức;
Hải khoát nan thù cúc dục ân.

Chữ và âm Hán
义仁积聚千年盛
福德栽培萬代亨
Nghĩa nhân tích tụ thiên niên thịnh
Phúc đức tài bồi vạn đại hanh

Chữ và âm Hán
父母恩义存天地
祖考蜻神在子孙
Phụ mẫu ân nghĩa tồn thiên địa
Tổ khảo tinh thần tại tử tôn

Chữ và âm Hán
上不负先祖贻流之庆
下足为後人瞻仰之标
Thượng bất phụ tiên tổ di lưu chi khánh
Hạ túc vi hậu nhân chiêm ngưỡng chi tiêu
Dịch
Trên nối nghiệp Tổ tiên truyền lại,
Dưới nêu gương con cháu noi theo.
______________________
鞠育恩深东海大
生成义重泰山膏
Cúc dục ân thâm Đông hải đại
Sinh thành nghĩa trọng Thái sơn cao

山水蜻高春不盡
神仙樂趣境長生
Sơn thủy thanh cao Xuân bất tận,
Thần tiên lạc thú cảnh trường sinh

象山德基門戶詩禮憑舊蔭
郁江人脈亭皆芝玉惹莘香
Tượng Sơn đức cơ môn hộ thi lễ bằng cựu ấm,
Úc Giang nhân mạch đình giai chi ngọc nhạ tân hương.

Núi Voi xây nền đức, gia tộc dòng dõi bởi nhờ ơn đời trước,
Sông Úc tạo nguồn nhân, cả nhà giỏi tài vì sức gắng lớp sau

山高莫狀生成德
海闊難酬鞠育恩
Sơn cao mạc trạng sinh thành Đức
Hải khoát nan thù cúc dục Ân

先祖芳名留國史
子宗積學繼家風
Tiên Tổ phương danh lưu Quốc sử
Tử tôn tích học kế Gia phong

祖昔培基功騰山高千古仰
于今衍派澤同海濬億年知
Tổ tích bồi cơ, công đằng sơn cao thiên cổ ngưỡng,
Vu kim diễn phái, trạch đồng hải tuấn ức niên tri.

Tổ tiên xưa xây nền, công cao tựa núi, nghìn thủa ngưỡng trông,
Con cháu nay lớn mạnh, ơn sâu như bể, muôn năm ghi nhớ.

福生富貴家亭盛
祿進榮華子宗興
Phúc sinh phú quý Gia đường thịnh,
Lộc tiến Vinh hoa Tử Tôn hưng.

學海有神先祖望
書山生聖子孙明
Học hải hữu Thần Tiên tổ vọng,
Thư sơn sinh Thánh tử tôn minh.

長存事業恩先祖
永福基圖義子孙
Trường tồn sự nghiệp ơn Tiên tổ,
Vĩnh phúc cơ đồ nghĩa cháu con.

祖功開地光前代
宗德栽培喻后昆
Tổ công khai địa quang tiền đại;
Tông đức tài bồi dụ hậu côn.

Tổ tiên công lao vang đời trước
Ông cha đức trí tích lớp sau

功在香村名在譜
福留孙子德留民
Công tại Hương thôn, danh tại phả;
Phúc lưu tôn tử, đức lưu dân.

Một số mẫu hoành phi hán nôm dùng để treo tại nhà thờ tiểu chi và bàn thờ gia tiên, Mẫu chữ hán và dịch nghĩa tiếng việt. Quý vị có thể sử dụng chữ hán nguyên gốc hay sử dụng chữ quốc ngữ  tùy ý

 Một số mẫy hoành phi câu đối thường dùng

cau doi bach nhan thai hoa
Đại tự 4 chữ "bách nhẫn thái hòa"
bach phúc biền trăn
Bách phúc biền trăn
cau doi tich thien du khánh
Tích thiện dư khánh
câu đối khánh liu miêu duệ
Khánh lưu miêu duệ
cau doi thien toi lac
Thiện tôi lạc
hoanh phi trung hau gia thanh
Trung hậu gia thanh
hoanh phi ngu phuc lam mon
Ngũ phúc lâm môn
hoành phi tất hữu hưng
Tất hữu hưng
Hoanh phi tho gia tien
Vạn cổ trường xuân
Hoanh phi nha tho chi

Vĩnh miên thế trạch

Ngũ Phúc Lâm Môn
Quà tặng nhân ngày tân gia và khai trương

Định nghĩa: Câu đối được liệt vào một thể loại mang tính biền ngẫu, dùng thể thức đối đôi mà biểu hiện ý nghĩa, tư tưởng. Chữ 對 ở đây có ý nghĩa đối lập, thành đôi.
Do go Hai Minh

II. Danh hiệu:

Câu đối được người Trung Quốc gọi là Đối liên (對聯), dùng để chỉ một dạng sơ khởi của nó là đào phù tức bùa gỗ đào(桃符). Còn được người xưa gọi là Doanh thiếp, Doanh liên.

Dữ liệu: (Theo WIKIPEDIA) "Đối liên có lịch sử ra đời cách đây khoảng 3000 năm, nhưng theo Tống sử Thục thế gia (宋史蜀世家), câu đối đầu tiên được ghi lại do chính chúa nhà Hậu Thục (934-965) là Mạnh Sưởng viết trên tấm gỗ đào vào năm 959.
Nguyên bản: 

新年納餘慶
嘉節號長春

Phiên âm: 

Tân niên nạp dư khánh
Gia tiết hiệu trường xuân

Dịch thơ:

Năm mới thừa chuyện vui
Tiết đẹp xuân còn mãi 


III. Các loại câu đối:

Xuân liên (春聯):Câu đối xuân, chuyên dùng vào dịp Tết, gắn ở cửa.

Doanh liên (楹聯):Câu đối treo ở cột trụ, dùng trong nhà, cơ quan, cung điện của vua và những nơi cổ kính.

Hạ liên (賀聯):Câu đối chúc mừng, thường được dùng để chúc thọ, chúc sinh nhật, hôn giá, thăng quan tiến chức, có con, khai nghiệp v.v.

Vãn liên (挽聯):Câu đối than vãn, dùng trong lúc ai điệu tử vong.

Tặng liên (贈聯):Dùng để tán thán, đề cao hoặc khuyến khích người khác.

Trung đường liên (中堂聯): Câu đối dùng để treo ở những khách đường lớn, chỗ nhiều người lưu ý, và được phối hợp với bút hoạch (thư pháp).

Còn có một cách phân loại khác theo đặc điểm nghệ thuật:

Điệp tự liên (疊字聯):Một chữ xuất hiện liên tục.

Phức tự liên (複字聯):Hai vế có chữ giống nhau nhưng không xuất hiện một cách trùng phức liên tục.

Đỉnh châm liên (頂針聯):Chữ nằm phần đuôi của câu đầu lại là chữ đầu của câu sau.

Khảm tự liên (嵌字聯):Bao gồm số, phương vị, tiết khí, niên hiệu, họ người, nhân danh, địa danh, vật danh (ví như tên thuốc) v.v.

Xích (sách) tự liên (拆字聯):Mỗi hợp thể tự bên trong câu đối tách thành bao nhiêu chữ đơn thể, có người phân ra tinh tế hơn nữa là mở chữ ra (xích tự 拆字), hợp chữ lại (hợp tự 合字), tách chữ ra (tích tự 析字) v.v.

Âm vận liên (音韻聯): Bao gồm đồng âm dị tự, đồng tự dị âm cùng với điệp vận.

Hài thú liên (諧趣聯):Hàm dung ý nghĩa khôi hài, ẩn kín.

Vô tình đối (無情對):Ý nghĩa trên dưới không tương quan một mảy may nào, chỉ chỉnh những chữ, từ. Phần lớn Vô tình đối này ít thấy ý vị, hoàn toàn có thể quy nhập vào Hài thú liên bên trên.

Hồi văn liên (回文聯):Đọc xuôi (thuận độc 順讀) hay đọc ngược (đảo độc 倒讀) ý tứ hoàn toàn như nhau.

Những nguyên tắc của câu đối

Khi viết câu đối, nếu chọn được câu chữ tuân theo nguyên tắc sau thì đôi câu đối được gọi là chỉnh đối hay đối cân.

Đối ý và đối chữ

Đối ý: hai ý đối phải cân nhau mà đặt thành 2 câu sóng nhau.

Đối chữ: phải xét 2 phương diện thanh và loại.

- Về thanh: thanh bằng đối với thanh trắc và ngược lại.

- Về loại: thực tự (hay chữ nặng như: trời, đất, cây...) phải đối với thực tự; hư tự (chữ nhẹ như: thì, mà, vậy, ru...) phải đối với hư tự; danh từ phải đối với danh từ, động từ phải đối với động từ; nếu vế đối này có đặt chữ Nho thì vế kia cũng phải đặt chữ Nho...

Vế câu đối

Một đôi câu đối gồm hai câu đi song nhau, mỗi câu là một vế. Nếu câu ấy từ một người sáng tác gọi là vế trên và vế dưới. Nếu một người nghĩ ra một vế để người khác làm vế kia thì gọi là vế ra và vế đối.

Khi một câu đối do một người làm ra cả hai vế, thì chữ cuối, vế trên, câu bên phải (khi treo) là thanh trắc; còn chữ cuối, vế dưới, câu bên trái là thanh bằng.


Số chữ và các thể câu đối

Số chữ trong câu đối không nhất định, theo số chữ và cách đặt câu có thể chia câu đối ra làm các thể sau:

Câu tiểu đối: là những câu 4 chữ trở xuống.

Câu đối thơ: là những câu làm theo lối đặt câu của thể thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.

Câu đối phú: là những câu làm theo các lối đặt câu của thể phú, gồm có:

- Lối câu song quan: là những câu 6 đến 9 chữ, đặt thành một đoạn liền

- Lối câu cách cú: là những câu mà mỗi vế chia làm 2 đoạn, một đoạn ngắn, một đoạn dài

- Lối câu gối hạc hay hạc tất: là những câu mỗi vế có 3 đoạn trở lên.

Luật bằng trắc

Câu tiểu đối: 

- Vế phải: trắc-trắc-trắc

- Vế trái: bằng-bằng-bằng

Câu đối thơ: phải theo đúng luật bằng trắc của hai câu thực và câu luận trong lối thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.

Câu đối phú: Chữ cuối mỗi vế và chữ cuối mỗi đoạn phải bằng đối với trắc hoặc trắc đối với bằng. Khi mỗi vế đối có từ 2 đoạn trở lên thì nếu chữ cuối vế là trắc, các chữ cuối các đoạn trên phải là bằng và ngược lại. Nếu đoạn đầu hoặc đoạn dưới có đúng 7 chữ thì đoạn ấy thường theo luật thơ thất ngôn.




Nam mặc miếu trạch

Thế Gian Vô

Đây là bức hoành phi bằng đá ở Đền Và do Tử An Trần Lê Nhân, ngồi chức Giáo thụ phủ Quốc Oai và Phan Duy Tiếp, Tri phủ Quốc Oai đề mấy chữ: Sơn dữ thiên tề (Núi Tản cao ngang trời) 






Nho y thế hưng - một thời vàng son xưa cũ



Tích thụ kim hoa

Đây là bức hoành phi "Thổ Nạp Âu Á" 吐 納 歐 亞 hiện để ở nhà học của tăng sinh chùa Vạn Phước, Huế, là thủ bút của Phạm Quỳnh. Có tư liệu cho rằng có một hoành phi tương tự hiện tại nhà của người con trai út là nhạc sĩ Phạm Tuyên. 

Hai chữ đại tự "Trung Hiếu" trong phòng làm việc của Phạm Quỳnh (không đọc rõ tên người viết, ai có thể thấy rõ hơn, xin bổ sung)


VIỄN ĐIỀU PHỒN DIỄN

Bốn chữ này lấy từ bài Tiêu Liêu trong Đường Phong - Kinh Thi.

Nguyên văn: 

椒聊之实,蕃衍盈升。
彼其之子,硕大无朋。
椒聊且,远条且。

椒聊之实,蕃衍盈匊。
彼其之子,硕大且笃。
椒聊且,远条且。

Tiêu liêu chi thực; Phồn diễn doanh thăng;
Bỉ kỳ chi tử; Thạc đại vô bằng.
Tiêu liêu thư; Viễn điều thư.

Tiêu liêu chi thực; Phồn diễn doanh cúc;
Bỉ kỳ chi tử; Thạc đại thả đốc.
Tiêu liêu thư; Viễn điều thư.


Bài thơ nói cây Tiêu liêu cành dài thân lớn nên quả hạt nhiều (đầy đấu, đầy tay)

Phồn diễn: tức phồn thịnh, đông đúc. Viễn điều: chỉ cành dài nhánh dài. Câu hoành phi có ý nói: Dòng họ lâu đời, con cháu phồn thịnh.

Ngộ sự năng đoán

Đời Hùng quân Bắc quấy ngoài biên,
Nhờ đức Thiên vương giữ nước yên.
Ngựa sắt thét vang tan giặc mạnh,
Áo nhung cởi lại hoá thân liền.
Dọc ngang khóm trúc lưng trời nắm,
Hiển hiện cây trầm mặt đất lên.
Một tấm lòng son trung ấy hiếu,
Ngàn năm non Vệ đá bia truyền.


Bảo Đại thập nhất niên xuân
Hùng triều Bắc khấu phạm biên thuỳ,
Đỉnh xuất Thiên vương dực quốc ky.
Vũ bộ uy dương đằng thiết mã,
Sóc sơn thần hoá giải nhung y.
Tung hoành trúc ảnh lăng thiên động,
Phức úc trầm hương mãn địa phi.
Nhất phiến đan tâm trung thị hiếu,
Huân danh trường ký vạn niên bi.
Quang lộc tự thiếu khanh Nguyễn Văn Tiến bái đề

Nam thiên Thánh mẫu

Hữu Túc

Tả Nghiêm

Thánh Đức Nan Lường

Tế Thế An Dân

Cảm Tất Thông

Cầu Tư Ứng

Âm Dương Hợp Đức

Trắc Giáng Tại Thiên

Công Tham Vũ Trụ

Đức Phối Càn Khôn

Vạn Cổ Anh Linh

Nhật Nguyệt Tịnh Minh

Thánh Cung Vạn Tuế





Duật cầu đa phúc 

Thế Gian Vô

Bảng khen "Tiết Hạnh Khả Phong" cho bà Nguyễn Thị Niên năm 1937



Tấm hoành phi với 4 chữ do Vua phong tặng làng: “Mỹ tục khả phong” đang được lưu giữ tại đền Hoà Liễu

Di vật duy nhất còn lưu lại cho biết niên đại đình ở Hương Canh là bức hoành phi được treo ở tòa phương đình có 4 chữ Hán rất đẹp “THƯỢNG ĐẲNG TỐI LINH” niên hiệu Gia Long thứ 15 (1816), không hiểu vì lý do gì các bài viết của Sở Văn Hóa Vĩnh Phúc khẳng định là năm 1804.


THƯỢNG ĐẲNG TỐI LINH (Gia Long thập ngũ niên, nhị nguyệt, sơ nhất nhật cung hiến)



Chúng tôi đã đến thăm nhà thờ họ Tạ  ở khu  Nội Giữa  để thử tìm hiểu lại ý nghĩa của đôi câu đối trên. Được phép của gia chủ cho thăm quan  và chụp ảnh để  giải nghĩa ,khi tìm lại thông tin qua sách vở, qua mạng internet và so sánh những câu đối khác trong những buổi điền dã, thì dường như nội dung của câu đối hoành phi lại vượt khỏi  ý nghĩa địa phương có phần suy diễn  như sách “Hoành phi câu đối hay ở Vĩnh Phúc” đã nêu mà hàm chứa tính ẩn dụ sâu sắc của người xưa.
Nhà thờ họ Tạ làng Tiên Canh
Nhà thờ họ Tạ làng Tiên Canh
Câu đối cổ nhà thờ họ Tạ
Câu đối:

百年春露秋霜旦 


一 風蘋雅葦香

Bách niên xuân lộ thu sương đán 
Nhất điện phong tần nhã vỹ hương 
Về  bức hoành phi”
Untitled
HỮU CỐC DI

Hữu:有

  1. (Động từ) Có. § Đối lại với  無. ◎Như: hữu học vấn 有學問 có học vấn.
  2. (Tính từ) Đầy đủ, sung túc. ◎Như: phú hữu 富有 giàu có.

Cốc: 穀

(Danh) Lúa, gạo, hoa màu, lương thực nói chung. ◎Như: ngũ cốc 五穀 năm thứ cốc: đạo, thử, tắc, mạch, thục 稻黍稷麥菽 lúa gié, lúa nếp, lúa tắc, lúa tẻ, đậu

Di:貽

  1. (Động từ) Để lại. ◎Như: di huấn 貽訓 để làm gương lại dạy cho con cháu. ◇Liêu trai chí dị 聊齋志異: Di hận bách niên 貽恨百年 (Hương Ngọc 香玉) Để hận trăm năm (suốt đời).
Nếu giải thích theo từng từ và ghép lại thì :HỮU CỐC DI có nghĩa là ” CÓ THÓC ĐỂ LẠI”
Song thực chất đây là câu được đúc kết từ  câu trích dẫn ở Kinh Thi phần Lỗ Tụng  có câu rằng《詩》曰:「君子有穀,貽厥孫子。」
Thi Viết: “Quân tử hữu cốc, di quyết tử tôn” nghĩa là “Người quân tử có lúa gạo (của cải) để lại cho con cháu).
Do đó bức hoành phi không phải nói lên một sự kiện nào đó mà chính là nhắc nhở qua các thế hệ cần phải cần cù lao động để xây dựng nên cơ nghiệp lớn, cũng là tiền đề để lớp hậu duệ kế tục và phát triển hơn.
Đôi câu đối
Bách niên xuân lộ thu sương đán 
Nhất điện phong tần nhã vỹ hương 
Diễn giải hai thành ngữ: XUÂN LỘ THU SƯƠNG và PHONG TẦN NHÃ VỸ
XUÂN LỘ THU SƯƠNG:
Ý nghĩa: ví như ân trạch và uy nghiêm,thường dùng để tưởng nhớ tổ tiên như  cũnglà  phúc ấm của tổ tiên để lại cho con cháu.
Xuất xứ: Thành ngữ Xuân lộ thu sương có xuất xứ từ thiên 19 Chiếu Sách (诏策第十九), sách Văn Tâm Điêu Long (文心雕龙) của tác giả Lưu Hiệp (刘勰) ở nước Lương thời Nam Triều (南朝 • 梁) có đoạn viết: “ 眚災肆赦,則文有春露之滋;明罰敕法,則辭有秋霜之烈”
Phiên âm: “Sảnh tai tứ xá,tắc văn hữu xuân lộ chi tư;minh phạt sắc pháp,tắc từ hữu thu sương chi liệt”
Tạm dịch nghĩa như sau: ân xá tai vạ lỗi lầm thì trong văn ắt có đầy ân trạch (của vua); sắc pháp mà hình phạt sáng suốt thì trong từ ắt có thừa uy nghiêm.
Câu trên nằm trong đoạn văn sau đây trong thiên Chiếu Sách, sách Văn Tâm Điêu Long.
夫王言崇秘,大觀在上,所以百辟其刑,萬邦作孚。故授官選賢,則義炳重離之輝;優文封策,則氣含風雨之潤;敕戒恆誥,則筆吐星漢之華;治戎燮伐,則聲有洊雷之威;眚災肆赦,則文有春露之滋;明罰敕法,則辭有秋霜之烈:此詔策之大略也。
* Thành ngữ Xuân lộ thu sương thường xuất hiện trong những câu đối, trong những bức hoành phi, nó biểu hiện lòng hiếu thảo của con cháu đối với tổ tiên, biểu hiện lòng tôn kính đối với ơn đức của tổ tiên.
PHONG TẦN NHÃ VỸ:
Ý nghĩa: Lòng thành thơm thảo của cháu con, hòa diệu như rau Tần trong thơ Quốc Phong, rau Vỹ trong thơ Đại Nhã Kinh của Kinh Thi.
Xuất xứ: Trong Kinh Thi – Thể Quốc phong-  Chiếu Nam có ba bài thơ  hái rau tần cúng tế  với lòng thành kính. Bài hái rau tần (Thái Tần)  thứ nhất như sau:
Nguyên văn:
 于以采蘋?
南澗之濱。
于以采藻?
于彼行潦。
Phiên âm:
 Vu dĩ thái tần,
Nam giản chi tân.
Vu dĩ thái tảo,
Vu bỉ hành lão.
Dịch nghĩa:
 Để mà đi hái rau tần,
Núi nam hay mọc ở gần bờ khe.
Tảo kia ta hái luôn về,
Bên đường nước chảy dầm dề sau mưa.
Bài này kể lại chuyện vợ của quan đại phu  năng đi việc cúng tế, người nhà của nàng mới kể lại việc ấy mà khen tặng.
Như vậy với xuất xứ và ý nghĩa trên hai thành ngữ điều được hiểu theo các ẩn dung
Xuân Lộ Thu Sương: ân trạch của tổ tiên
Phong Tần Nhã Vĩ: Lòng thành của con cháu
Do đó nghĩa đôi câu đối trên là
Trăm năm sớm nhận ơn tiên tổ
Một lễ  lòng thành  của cháu con
Chữ điện  奠 nghĩa là: Lễ vật để cúng, tế phẩm.
◇Lí Hoa 李華: Bố điện khuynh trường, khốc vọng thiên nhai 布奠傾觴, 哭望天涯 (Điếu cổ chiến trường văn 弔古戰場文) Bày lễ rót rượu, khóc trông phía chân trời.
Hai thành ngữ trên cũng là một được sử dụng nhiều trong các hoành phi câu câu đối tại nhà thờ.
Hoành phi :XUÂN LỘ THU SƯƠNG
user33_pic633_1241500299
Câu đối có thành ngữ  tương tự.
PHONG TẦN NHÃ VĨ CHIÊU TRUNG TÍN XUÂN VŨ THU SƯƠNG THIẾT TRỨ TỒN.
PHONG TẦN NHÃ VĨ CHIÊU TRUNG TÍN
XUÂN VŨ THU SƯƠNG THIẾT TRỨ TỒN.
Về hoành phi , chúng tôi đã từng ghi chép được một bức hoành phi tại Thôn Phú Mỹ, Tự Lập , Mê Linh. Tại nhà thờ họ Nguyễn có ba chữ : DI CỐC ĐƯỜNG 貽穀堂. cũng có nội dung tương tự
Qua đó chúng ta có thể thấy nội dung  cách thức thể hiện của hoành phi – câu đối nhà thờ họ Tạ là một câu đối mang ý nghĩa sâu rộng, được trích dẫn từ điển cố, tứ thư ngũ kinh cũng là motip chung của một số nhà thờ họ khác, không phải là đánh dấu kỉ niệm sự kiện gì đến vua Gia Long như các sách ở Vĩnh Phúc đã đăng tải.

ở cổng đình Tiên Hường  còn vế đối bao năm rồi vẫn còn rõ nét
Untitled

肅雍宮廟登斯亭者如見後吳家揖遜休風

TÚC UNG CUNG MIẾU ĐĂNG TƯ ĐÌNH GIẢ,   NHƯ HẬU NGÔ GIA ẤP TỐN HƯU PHONG
Có nghĩa là: Lên đinh cung kính như thấy nhà Hậu Ngô đang  lễ bái  giữ gìn hưu phong
Hưu Phong-休風  đồng nghĩa với mỹ tục  là  phong tục tốt đẹp

 “Thiện Tục Khả Phong”
THIỆN TỤC KHẢ PHONG-1880
Mỹ tục khả phong ở đình làng Đình Bảng- Bắc Ninh


Câu đối thứ nhất:

道教家風,水之江裴,星之斗
诗書恩澤,金惟鎔範,德惟山


Đạo giáo gia phong, thuỷ chi giang Bùi, tinh chi đẩu
Thi thư ân trạch, kim duy dung phạm, đức duy sơn.

Thành Thái, Giáp Thìn niên. (1904) (Nếu nhớ năm có thể ghi năm khác}

Giáo hoá, gia phong rộng lớn như sông Bùi, sáng như sao Bắc đẩu
Ân trạch thi thư làm khuôn mẫu cho học trò, đức độ như núi cao


Nếu Phục chế có thể ghi : 
Thượng khoản: Nhâm Thìn niên xuân
Hạ khoản: Cháu đời thứ X … Sông Bùi … bái thư.
(Tên bạn là gì thì ghi Họ tên thay vào, tôi tạm ghi tên bạn là Sông Bùi)

Câu đối thứ 2:

地 出 英 賢, 禮 教 門 風 如 山 斗
家傳 詩 礼, 箕 裘 後 裔永世家. 
(名)


Địa xuất anh hiền, lễ giáo môn phong như Sơn Đẩu 
Gia truyền thi lễ, cơ cừu hậu duệ vĩnh thế gia. (danh gia)

Đất tốt sinh hiền tài, lễ giáo gia phong khuôn phép như Sơn Đẩu
Gia truyền thi lễ, con cháu nối nghiệp làm rạng rỡ gia môn.


Phật, Pháp và Tăng

Hà đức như sơn

 Truy Tư Vô Cầu: 追 思 無 求

Ý nghĩa: Thành tâm tưởng nhớ tổ tiên mà không mong cầu điều gì. Vì cầu mong thường làm người ta khổ, cầu mà không được làm ta buồn, cầu mà được làm ta lo mất cái được. Do vậy mong cầu có thể mang phiền não cho bản thân. 


 bức hoành phi "ĐỨC THỤ TƯ BỒI"



phuc_500
PHÚC- Phúc như Đông hải trường lưu thủy.
loc_500
LỘC - Tăng tài tiến lộc.
chu_tho_500
THỌ - Thọ tỉ Nam sơn bất lão tùng.
tri_500
Chữ:  TRÍ
nhan-co-khung-den_500
NHẪN - Bách nhẫn công thành
nghia_500
                                 Chữ: NGHĨA.
nhan-_bach_nhan_thai_hoa_500
NHẪN - Bách nhẫn thái hòa
luu-huong_500
 Lưu hương
thanh_500
THÀNH - Tâm tưởng sự thành.
cat_tuong_nhu__500
CÁT TƯỜNG NHƯ Ý
Tết nhất sắp đến rồi, ai cũng đang vội vã, gấp gáp hoàn thành các công việc trước khi 1 năm cũ qua đi. Nhưng dù bận thế nào thì 1 công việc không thể thiếu của bất kỳ gia đình nào trước bữa cơm tất niên, đó là dọn dẹp, trang hoàng lại nhà cửa, để tạm biệt năm cũ và đón năm mới với hy vọng mọi điều tốt đẹp!

Trong phần trang hoàng đó, một nét văn hóa đang dần trở lại ở Việt Nam, sau nhiều năm bị lãng quên, đó là viết chữ, viết câu đối mừng xuân. Với mong muốn giúp gia đình mẹ nào có ý định sử dụng câu đối trong việc trang trí hay biếu tặng, bố Pucca nhận viết thêm câu đối xuân trong dịp này. Đồng thời, mình cũng tặng thêm nẹp treo đối với chữ đơn trên giấy Điệp hoặc giấy vân rồng.

Về nội dung câu đối: Các mẹ có thể lựa chọn bất kỳ câu đối chữ Hán nào mình mong muốn (có 1 số gợi ý ở dưới, mình sẽ cố gắng sưu tập thêm).

Chất liệu giấy: Giấy Xuyến chỉ đỏ hoặc vàng, có bồi và nẹp treo đầy đủ. Làm thêm khung kính nếu các mẹ nó yêu cầu.

Đơn giá: 200k/1 câu đối, sẽ tính thêm phí ship nếu mẹ nào yêu cầu chuyển tận nơi. Ngoài Hà Nội, mẹ nó chịu phí chuyển phát Tín Thành giúp mình nhé.


Sau đây là một số câu đối khá hay cho các mẹ nó lựa chọn:

Ngoài cổng ngõ thì có câu :

1) Môn đa khách đáo thiên tài đáo
Gia hữu nhân lai vạn vật lai

Lược dịch :

Cửa nhiều khách đến nhiều tiền đến
Nhà có người vào lắm vật vào

Ðôi câu đối dán trong sân nhà :

2) Sơn thủy thanh cao xuân bất tận
Thần tiên lạc thú cảnh trường sinh

Lược dịch :

Phong cảnh thanh cao xuân mãi mãi
Thần tiên vui thú cảnh đời đời

Những câu đối dán trong nhà :

3) Thiên tăng tuế nguyệt, niên tăng thọ
Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường

Lược dịch :

Trời thêm năm tháng, tuổi thêm thọ
Xuân khắp đất trời, phúc khắp nhà

4) Tổ tôn công đức thiên niên thịnh
Tử hiếu tôn hiền vạn đại xương

Lược dịch:

Công đức tổ tôn nghìn năm thịnh
Hiếu hiền con cháu vạn đời ngay

5) Xuân như cẩm tú, nhân như ngọc
Khách mãn gia đình, tửu mãn tôn

Lược dịch :

Xuân như cẩm tú, người như ngọc
Khách chật trong nhà, r*** hết chung

6) Phúc sinh lễ nghĩa gia đường thịnh
Lộc tiến vinh hoa phú qúy xuân

Lược dịch :

Phúc đem lễ nghĩa trong nhà thịnh
Lộc nảy vinh hoa phú qúy xuân

7) Niên niên như ý xuân
Tuế tuế bình an nhật

Lược dịch :

Năm năm xuân như ý
Tuổi tuổi ngày bình an

Nhập môn tân thị kinh luân khách
Mãn tọa dai đồng cẩm tú nhân

Lược dịch :

Vào cửa toàn khách kinh luân
Ngồi chơi toàn người cẩm tú

9) Niệm tiên tổ, duật tu quyết đức
Khải hậu nhân,trường phát kỳ tường

Lược dịch :

Nhớ tổ tiên, đẹp điều nhân đức
Tin cháu con bền sự lạ hay

10) Thảo ốc an cư, tích kim quang đắc đức
Bố y tùy phận, cầu phúc đức lai tài

Lược dịch :

Nhà cỏ ở yên, tích kim quang được đức
Áo vải an thân, cầu phúc đức đến tài

11) Thiên địa vô tư, tích thiện tự nhiên thiện
Thánh hiền hữu giáo, tu thân khả dĩ vinh

Lược dịch

Trời đất vô tư, làm điều thiện tự nhiên được thiện
Thánh hiền có dạy, lo tu thân có thể được vinh

12) Tân niên, hạnh phúc bình an tiến
Xuân nhật, vinh hoa phú qúy lai

Lược dịch :

Năm mới, hạnh phúc bình an đến
Ngày xuân, vinh hoa phú qúy về

13) Ðịa sinh tài, thế nghiệp quang huy
Thiên tứ phúc, gia thanh hiện thái

Lược dịch :

Ðất sinh tài nghiệp đời sán lạn
Trời ban phúc, nhà tiếng tốt tươi

14) Phúc mãn đường, niên tăng phú qúy
Ðức lưu quang, nhật tiến vinh hoa

Lược dịch :

Phúc đầy nhà, năm thêm giàu có
Ðức ngập tràn, ngày một vinh hoa

15) Trúc bảo bình an, tài lợi tiến
Mai khai phú qúy, lộc quyền lai

Lược dịch :

Trúc giữ bình yên, thêm tài lợi
Mai khai phú qúy, lại lộc quyền

16) Tiên tổ phương danh lưu quốc sử
Tử tôn tích học hiển gia phong

Lược dịch :

Tiên tổ danh thơm ghi sử nước
Cháu con tích học nổi cơ nhà

17) Liên tọa đài tiền hoa hữu thực
Bồ đề thụ thượng qủa thanh nhàn

Lược dịch :

Tòa sen đài trước hoa đầy đủ
Cổ thụ bồ đề qủa thanh nhàn

1 Đa lộc, đa tài, đa phú quý
Đắc thời, đắc lợi, đắc nhân tâm

Lược dịch :

Nhiều lộc, nhiều tài, nhiều của cải
Gặp thời, được lợi, được lòng người



19) Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ
Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên

(Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân;
Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết)



Còn đây là một câu mình mới viết nhé!

Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ
Xuân mãn càn khôn phúc mãn đường
Đa tài đa lộc đa phú quý
Đắc thời đắc lợi đắc nhân tâm




1. Chữ NHẪN Bách Nhẫn thái hoà (Giữ được điều nhẫn trăm sự an lành)"..





2. Chữ KHANG



3. Chữ TÀI



4. Chữ PHÚC
4a.chữ Thọ

Vị trí thích hợp treo chữ Thọ theo phong thủy

5. Chữ NHÂN



6. Chữ LỘC



7. Chữ ĐỨC



8. Chữ HIẾU


An Sơn Miếu


1 nhận xét: